NHẬN XÉT VỀ BLANK VERSE

Tuy không ôm ấp, không o bế từng lời, từng câu, từng bài thơ, như tác giả lúc sáng tạo, trong vai trò dịch giả, tôi cũng không kém phần âu yếm, trịnh trọng đối với từng tác phẩm được tuyển chọn.

Bạn đọc Nguyễn Vũ Văn gửi đến bài nhận xét về thơ Tân hình thức ở giai đoạn phong trào thơ tân hình thức vừa được khởi xướng, được độc giả đón nhận nồng nhiệt, các tác giả thơ đã đóng góp nhiệt thành qua đó thơ tân hình thức đã có những bước phát triển cả về lý thuyết lẫn thực hành. Cũng như mọi dòng thơ khác ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ vẫn luôn đem lại những trải nghiệm thú vị cho độc giả mà ở đó cảm xúc của nhà thơ là suối nguồn tươi trẻ trên những tiêu chí của THƠ:
– Một bài thơ được cho là hay đồng nghĩa là một bài thơ có tính mới, bởi công việc của nhà thơ là sáng tạo tinh thần, đồng thời là một trò chơi với chữ nghĩa với các luật tắc từ đó phái sinh ra. Ở mỗi dòng thơ đều có những đặc điểm riêng mà không thể nào so sánh được. Những nhược điểm hay ưu điểm chỉ là tương đối nếu dòng thơ đó nhận ra để chấp nhận sự đổi mới thì nó được gọi là phát triển nghĩa là khác. Khác không hẳn phải thay đổi khác như thơ Tân hình thức mà là tìm được cảm thức mới trong vô vàn những gì muôn năm cũ. Để chấp nhận sự thay đổi như thơ Tân hình thức thì các nhà thơ cũ khởi đầu cần không lặp lại những gì họ đang làm trong từng bài thơ thay vào đó là sự lặp lại biến ảo nhạy cảm trong cảm thức từng ngôn từ mà ở đó ngôn ngữ chỉ là thứ yếu / phương tiện cho cảm thức, phản ánh thực tại một cách sâu sắc hơn bên trong mỗi chúng ta thay vì bên ngoài của thực tại.
– Mỗi nhà thơ, mỗi con người có cảm thức khác nhau, cuộc sống ở mỗi nơi cũng khác nhau và làm sao để gắn kết lại với nhau đó cũng là một trong những sứ mệnh của thơ với lòng mong muốn và khát khao trong từng câu thơ truy tìm hạnh phúc cho cá nhân mình, cho nhân loại giữa sự khác biệt màu da, văn hóa, niềm tin, quan điểm…
– Với cá nhân tôi đọc thơ Tân hình thức không phải để thuộc, làm thơ Tân hình thức không phải để lại những câu thơ được dịch ra hàng trăm thứ tiếng hay hàng triệu người học thuộc, lặp lại mà chỉ đơn giản để có thể cảm thông và thấu hiểu nỗi đau của những con người chúng ta gặp gỡ dù không phải là bạn bè, người thân và ngay cả là người dưng, mà ở đó luôn là mới mẻ vì người làm thơ tân hình thức luôn là người phản ánh thực tại, đối diện với việc học hỏi những điều mới mẻ và nhận ra những giới hạn của chính mình.
– Và đã không phải không có những bài thơ hay hoàn toàn mới về thi pháp được nở hoa trong thế giới luôn biến đổi một cách nhạy cảm này.
Có một số người đã không chấp nhận thơ Tân hình thức coi đó là thơ đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc, cũng có thể có những thí dụ cho thấy điều đó trong THƠ nói chung tuy nhiên một vài ví dụ không thể đại diện cho một dòng thơ được nhất là khi nó mang tính tiêu cực, cũng có nhiều bài thơ truyền thống hay mới mẻ lại hoàn toàn không phải là THƠ dù về mặt hình thức nó giống như những câu thơ vậy. 
Nhận xét của bạn đọc Xuân Thủy – 2021


Nguyễn Vũ Văn

. Có một địa chỉ của Tạp Chí Thơ (TCT) trên Internet, do Khế Iêm chủ trương, cho đến nay vẫn còn mang cái bià của số Mùa Thu 2000 mở ra cho một mục lục xoay quanh lối thơ Tân Hình Thức. Tạp Chí Thơ khởi xướng việc thử nghiệm lối thơ mới theo phong trào New Formalism trong thơ Mỹ. Tôi không biết Tạp Chí Thơ đã khởi đầu việc này như thế nào, đường lối ra sao, nhưng đã tập hợp được một số tác giả hưởng ứng.

Trong bài “Tân Hình Thức: Cuộc Chuyển Ðổi Thế Kỷ”, TCT xác nhận rằng “Sau một khởi đầu đầy hào hứng, mang ý nghĩa bước vào tân thế kỷ, người làm thơ cảm thấy, có điều gì vừa mới mẻ, vừa ngỡ ngàng, chừng như chưa bắt được những gì muốn bắt. Sự tham gia vì thế vẫn chưa nhiều, sự đáp ứng vẫn chưa đủ, dù rằng cánh cửa vẫn mở. Ðiều này có thể giải thích, sự thay đổi của thơ, chẳng phải chỉ đơn giản là thay đổi cách sống, cách nghĩ, đẩy quá khứ vào quá khứ, mà còn là làm trống không tâm hồn mình, xóa bỏ mọi giá trị đã lạc điệu và đón nhận những quan điểm mới. Sự chuyển hóa, tiếp nhận và thực hành thơ là quá trình vỡ đất, gieo trồng mầm hạt. Tân Hình Thức như một ý niệm về thân xác, phả linh hồn vào, tạo ra sự sống, và như vậy, nhà thơ phải dùng trực giác, liên kết những yếu tố, như những phần trong cơ thể, từ đó chở cái hồn thơ, và làm bài thơ thành hiện thực. Một lý do nữa là TCT chưa cung cấp đủ thông tin để chúng ta có thể hình dung ra được những ý niệm toàn thể“.

Ngoài bài nói trên, TCT chỉ đăng tải hai bài dịch nói về quan điểm của các tác giả Mỹ. Ðó là bài Những Thiên Thần Nổi Loạn (Rebel Angels: 25 Poets of The New Formalism) của M. Jarma và D. Mason và bài phỏng vấn Timothy Steele của Kevin Walzer.

  • Sự thiếu vắng các số báo cũ và không cập nhật hóa kích thích tôi tìm đọc Tạp Chí Thơ bằng ấn bản.

Tạp Chí Thơ manh nha nói đến một lối thơ mới ở số 13, mùa thu 1998, trong bài phỏng vấn của Thụy Khê với nhóm chủ trương gồm có Khế Iêm, Phan Tấn Hải, Chân Phương và Ðỗ Khiêm. Và sau một số bài tiểu luận, TCT đã có được một số bài thơ Tân Hình Thức kể từ số 18 là số ta thấy trên website của TCT. Các bài thơ theo đường lối mới được xếp riêng trong phần mục lục.

NEW FORMALISM

Trong những năm 1980, phong trào New Formalism nổi lên như một sự trở dậy của thi ca có vần và đều chữ (metered and rhymed poetry) (1) . Cho rằng thơ tự do đã trở nên trì trệ với những bài thơ duy ngã (solipsistic, chỉ tin nói cái gì mình biết, nói cái gì mình nghĩ, cảm thấy, trông thấy, nghe thấy…), viết theo văn xuôi (prosaic) và khó nhớ, các nhà thơ trong trường phái Tân Hình Thức Mỹ trở về với hình thức cổ truyền, lối thơ đều chữ và tự sự (narrative) để đem lại cho thi ca Mỹ sự trong sáng, nhạc tính và sự khách quan và khiến cho thơ dễ đến với quảng đại quần chúng.

Trước đó, những năm 1950 cũng đã có một trường phái hình thức ra đời, gọi là Academic Formalism. Phái này tránh nói về cảm xúc và thiên về châm biếm nhưng dùng ngôn từ chải chuốt. Còn New Formalism thì mô tả cảm xúc trực tiếp hơn và dùng nhiều ngôn từ bình dân. (2)

  • M. Jarman và D. Mason nói như sau trong tuyển tập Rebel Angels: 25 Poets of The New Formalism :
    “Hiện tượng văn hóa vào những thập niên ’60 và ’70 đã đi tới cùng của chủ nghĩa hiện đại, và qua hai cuộc thế chiến, thơ theo thể truyền thống bị coi như là đối nghịch với sự thực. Sự nở rộ của thơ tự do trong thời Chiến Tranh Lạnh, tự nó đã đổi thay, một cuộc cách mạng thấm trong cá tính Hoa Kỳ. Những nhà thơ trẻ của thời kỳ này, đọc tác phẩm của Allen Ginsberg, Amiri Baraka, Diane Wakoski, Denise Levertov, và chuyển từ phong cách truyền thống sang tự do như các nhà thơ Robert Lowell và Adrienne Rich. Kết quả thông thường là, như họ bắt chước những nhà thơ lớp trước, thơ đề cập tới những quan tâm xã hội, thu hẹp ngôn ngữ trong phạm vi hình thức. Thơ và văn xuôi gần như không thể phân biệt, và “thể thơ” mang một nghĩa xấu. Di sản điệp vận và ngữ vựng phong phú của tiếng Anh bị tổn hại, cũng vậy, sự tỏa hương của thơ rút lại thành các diễn đạt trơ lì.

…Vào thập niên 1970 chỉ có vài nhà phê bình có thể thấy điều gì xảy ra, và hiểu rằng tại sao thế hệ những nhà thơ trẻ lại cảm thấy bị giới hạn bởi những loại thơ tự do được phát hành khắp nơi.

… Chúng tôi chọn thuật ngữ Chủ Nghĩa Tân Hình Thức, bởi nó diễn đạt một cách tốt nhất phong trào này và phân biệt giữa thơ tự do và truyền thống. Phải hiểu rằng những nhà thơ tân hình thức, khởi đầu viết theo thể luật truyền thống Anh và thường trong hình thức kết hợp với thể luật. Ðó là trường hợp những nhà thơ trong tuyển tập. Nhưng Chủ Nghĩa Tân Hình Thức cũng phản ảnh những khuynh hướng có ý nghĩa văn hóa rộng lớn, không phải không liên hệ tới sự trở lại giai điệu trong âm nhạc nghiêm chỉnh, sự tiêu biểu trong nghệ thuật thị giác, cá tính và nút thắt trong tiểu thuyết.

… Bác bỏ cách ghi nhận cảm tính rằng thể luật không phải Hoa Kỳ, những nhà thơ Tân Hình Thức đã đóng góp trong một đồng thuận mới, bảo vệ giá trị cụ thể của thơ chống lại sự xâm lấn của văn xuôi, trong khi cùng lúc bảo vệ những chủ đề bình dân chống lại gánh nặng của chủ nghĩa phi văn hóa. Sau cùng, đó là những nhà thơ bước vào thời đại mà truyền hình đã trở thành sức mạnh truyền thông mạnh mẽ nhất. Ðiều cơ bản, qua đó, sự khám phá về thể luật của những nhà thơ trẻ, nhắc chúng ta rằng ngôn ngữ đòi phải được canh tân bởi từng thế hệ tiếp nối.

Hành động làm thơ theo luật tắc ngôn ngữ nói đảm đương một nền văn minh giá trị, đặt phần thưởng, chẳng phải chỉ nơi kỹ thuật mà còn trên một viễn ảnh văn hóa rộng lớn, hồi phục sự cân bằng và giai điệu cho nghệ thuật.

… Những nhà thơ Tân Hình Thức không phải luôn kết dính chặt chẽ với thể luật âm tiết nhấn . Một vài người dùng những âm tiết hoặc thể luật nhấn. Một số những bài thơ là những thử nghiệm trong thể luật, nhưng chúng tôi muốn có sự tin cậy cả về dòng và tu từ.” (Ltt dịch)

  • New Formalism dần dần được chú ý. Kẻ khen, người chê.

Xin trích dẫn một bài thơ của Timothy Steele:

FAE

I bring Fae flowers. When I cross the street,
She meets and gives me lemons from her tree.
As if competitors in a Grand Prix,
The cars that speed past threaten to defeat
The sharing of our gardens and our labors.
Their automotive moral seems to be
That hell-for-leather traffic makes good neighbors.

Ten years a widow, standing at her gate,
She speaks of friends, her cat’s trip to the vet,
A grandchild’s struggle with the alphabet.
I conversationally reciprocate
With talk of work at school, not deep, not meaty.
Before I leave we study and regret
Her alley’s newest samples of graffiti.

Then back across with caution: to enjoy
Fae’s lemons, it’s essential I survive

Lemons that fellow-Angelenos drive.
She’s eighty-two; at forty, I’m a boy.
She waves goodbye to me with her bouquet.
This place was beanfields back in ’35
When she moved with her husband to L.A.

Trong bài thơ trên, ta thấy mỗi câu có 10 âm (syllables) và có vần (rhyme) rõ rệt.

PACIFIC RIM
……
Why, then, this ache, this sadness? Towelled off,
The flesh is mortified, the small hairs standing
Among their goose bumps, the teeth chattering
Within the skull. A brutal century
Draws to a close. Bewildering genetrix,
As your miraculous experiment
In consciousness hangs in the balance, do
You pity those enacting it? The headlands’
Blunt contours sloping to the oceanside,
Do angels weep for our folly? Merciful,
Do you accompany our mortality
Just as, low to the water, the pelican
Swiftly pursues his shadow down a swell?
…..

Trong đoạn thơ trên, sự hợp vận thưa thớt hơn và ta thấy rõ ràng các câu thơ bị ngắt quãng để xuống giòng ngay giữa câu, ở chỗ mà bình thường người ta phải nói liền một mạch, như là: …do / You pity those thing?

Trong Rebel Angels, bài “Aunt Toni’s Heart” của Rafael Campo hợp vận rất chặt chẽ:

…an afternoon of sticky kisses, sweets —

Parked cars made silver rivers from the streets.
I’d hide beneath the table where the men
Played poker in the smoky shade. They bent
Their cards. Red wine, cigars and pepperoni.
It wasn’t really whispers when Aunt Toni
Sat right down beside my Uncle Joe — surprise
Is more like it — and stared into his eyes…

Nhưng đến bài “The Shadow Returns” của Phillis Levin’s thì chính vận lại hiếm hoi, chỉ có bàng vận :

It was my death that stung my sight:
Substantial time to race my heart
Before I turned from it in doubt.

It was my love upon the bed
Who pointed out my silhouette,
Anonymous and monochrome.

Thế nào là chính vận và bàng vận trong thơ tiếng Anh ?

Chính vận (rhyme) là nguyên âm cuối đọc như nhau, hay nguyên âm và phụ âm cuối đọc như nhau (phiên âm giống nhau). Thí dụ : meaty / graffiti; pepperoni / Tony; surprises / eyes; standing / chattering.

Bàng vận (slant rhyme, off rhyme, half rhyme, near rhyme) là chỉ có phụ âm cuối đọc như nhau (theo Britannica Encyclopedia), thí dụ : stopped / swept; parable / shell; down / noon, seat / fate. Thoạt tiên bàng vận chỉ được dùng trong thi ca xứ Welsh, Ái Nhĩ Lan và Iceland. Trong thi ca Anh, bàng vận được Henry Vaughan dùng lần đầu tiên và chỉ được chấp nhận khi Gerard Manley Hopkins và William Butler Yeats bắt đầu dùng.

Nhưng trong âm nhạc, bàng vận lại chỉ cần nguyên âm cuối đọc như nhau, hay gần như nhau, phụ âm cuối tự do (http://www.lyricpro.com/LyricProSlantRhymes.htm). Thí dụ heart có thể vần với : are, bar, car, far, scar, star, snarl, barb, garb, card, guard, hard, shard, yard, arc, ark, bark, dark, lark, mark, park, shark, spark, stark, harp, sharp, chart, dart, heart, part, smart, start, arch, March, march, parch, starch, scarf, harsh, marsh, suave, carve, starve, balm, calm, Palm, psalm, qualm, arm, farm, hard, barn, yarn, afar, ajar, bizarre, guitar, regard, remark, apart, depart, alarm.

TÂN HÌNH THỨC Việt trong Tạp Chí Thơ

  • Trở lại với Tạp Chí Thơ, hãy xem họ nói gì về kỹ thuật thơ Việt trong Tân Hình Thức:

Trước hết là sự nhận định về thơ tự do:

“…thơ tự do Việt lại không thể áp dụng các luật tắc của thơ phương Tây, vì là hai hệ ngôn ngữ khác nhau…Thơ tự do Việt chỉ đơn giản là loại thơ không vần, dù khởi đi từ ảnh hưởng nhưng hoàn toàn không giống gì với những trào lưu thơ phương Tây, chúng ta chỉ có thể mô phỏng theo nghiã đen của chữ, và không ý thức và cảm được nhạc tính của thơ. Bởi, luật của thơ vần có công dụng sắp xếp những âm chữ để tạo thành nhạc, và khi đã thoát khỏi luật lệ ràng buộc này, đáng lẽ người làm thơ phải tìm ra luật khác để thay thế, thì lại rơi vào lầm lẫn không lối thoát, cho rằng loại thơ tự do là loại thơ không cần luật lệ gì nữa, tự do, mạnh ai nấy làm, và những bài thơ đọc lên, chúng ta nghe những âm vang, và tưởng là nhạc tính, thật ra đó chỉ là những âm vang của chữ… Ða số những bài thơ tự do mà người đọc ưa thích, thật ra vẫn còn nằm trong âm hưởng, gần với những rung cảm của thơ vần, và chỉ có thể gọi là thơ vần biến thể. Nếu thơ cứ quanh quẩn và không ra khỏi giữa vần và văn xuôi, thì làm sao có thể gọi đó là một thể thơ, mang tính toàn vẹn ý nghĩa này. Thơ văn xuôi, nếu hiểu đúng, chỉ mang cái hình thức văn xuôi, khác với văn xuôi là người làm thơ phải đưa vào nhịp của thơ, chứ không phải thơ văn xuôi chỉ đơn giản là một đoạn văn xuôi.” (Khế Iêm, TCT 17, tr165-166)

Nhận định về thơ Tân hình thức Mỹ:

“Nếu thơ tự do dựa vào ngữ điệu, cú pháp văn phạm, và sự lập lại, thì thơ Tân Hình Thức [Mỹ] dựa vào thể luật (meter), vần, tính truyện, và kỹ thuật vắt dòng. Vắt dòng bất cứ chỗ nào trong câu, dòng trước tiếp theo dòng sau, và cách đọc không dừng lại cuối dòng …Tân Hình Thức giống thơ tự do chủ vào câu dòng, tôn trọng âm, chữ và cú pháp văn phạm, gần với cách nói thông thường. Thể luật và vần giúp thơ Tân hình thức tạo được nhịp điệu và vì thế không cần đến kỹ thuật lập lại, vả chăng âm thanh từ thể luật iambic cũng đã là một hình thức lập lại… Ngay cả những quan niệm về vần cũng khác, không hẳn là chữ, mà còn là những nhóm chữ, câu, cảm xúc, và ý tưởng. Một đặc điểm của thơ Tân hình thức là tránh được sự trình bày khúc mắc của thơ tự do, dễ hiểu, dễ nhớ, hấp dẫn bởi tính truyện kể, sự réo rắt và luyến láy nhạc tính.” (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 69)

Tân hình thức trong thơ Việt:

“Ngôn ngữ càng đi gần về nguyên thủy càng có những nét tương đồng, chẳng hạn không nhấn [unstressed], nhấn [stressed] trong tiếng Anh có khác gì bằng trắc trong tiếng Việt, hay hai ngôn ngữ đều có những nguyên âm và phụ âm giống nhau. Với thơ Việt, nếu chỉ đếm chữ xuống hàng, thì chẳng khác nào thơ tự do trước đó, hết câu xuống hàng, vì thể luật đếm âm tiết không đủ sức để tạo thành nhịp điệu, và chỉ có công dụng làm cân bằng nhịp điệu tạo ra bởi ngữ điệu và cú pháp văn phạm (hoà hợp giữa ngôn ngữ nói và viết). Tiếp nhận một số nguyên tắc thơ tự do phương Tây, và với đặc tính của ngôn ngữ, cuối cùng thơ Tân hình thức Việt bao gồm: ngữ điệu, cú pháp văn phạm, sự lập lại, tính truyện, cách đếm âm tiết và kỹ thuật vắt dòng . Lập lại hình ảnh, ý tưởng, nhóm chữ để thay thế vần ở cuối dòng, cho đến khi người làm thơ, qua kinh nghiệm, tìm được cách nào hay nhất. Thể thơ 7 hay 8 chữ tương đối hợp với ngôn ngữ nói hơn vì thật khó đưa những câu nói đời thường với vần vào lục bát. Ðể cụ thể hóa, chúng ta thấy, vọng cổ khi dùng những câu nói đời thường phổ vào âm luật, khi ca lên, trở thành lời ca tiếng nhạc, không còn là những câu nói đời thường nữa. Như vậy khi áp dụng thi pháp đời thường, có nghiã là đưa những câu nói đời thường vào thơ để trở thành thơ, phải dựa theo những luật tắc của thơ, và đó là ý nghĩa của thơ Tân hình thức.” (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 70)

  • Ði vào chi tiết, ta xem nhóm Tân hình thức nhận định và làm thơ như thế nào.

Tính truyện :

“Hoa Kỳ là nơi sinh sống của hầu hết các sắc dân, từ Âu sang Á, đến những mảnh đất Phi Châu xa xôi. Những nhà thơ Hoa Kỳ bao gồm nhiều gốc gác khác nhau, đã mang đến đất nước này nhiều truền thống và tập tục, tạo thành bối cảnh của nền văn hóa bao quát. Tính truyện trở thành phương tiện chủ yếu, phá vỡ vai trò áp chế, độc tôn văn hóa của thế kỷ 20, tạo cơ hội đồng đều cho mỗi người, mỗi tập thể văn hóa, kể lại câu chuyện và kinh nghiệm của chính ho ï. Có nghĩa là, những nhà thơ Việt trong thời đại di dân, những nhà thơ bản địa, đâu là câu chuyện về nguồn cội và văn hóa của chính chúng ta? Và vì vậy, tính truyện đang có những ảnh hưởng mạnh tới mọi bộ môn nghệ thuật từ thơ, truyện, kịch, cho đến hội họa, như một hành trình tìm về khởi điểm. Cuối cùng, Tân hình thức là một cuộc hòa điệu giữa qúa khứ và hiện tại, giữa truyền thống và tự do, giữa nhiều nền văn hóa khác biệt, và ở phần sâu xa hơn, hóa giải những mầm mối phân tranh đã ăn sâu vào ký ức, chẳng phải là của một dân tộc mà của cả nhân loại từ hàng trăm năm trước.” (TCT 20, tr. 74-75)

Khế Iêm cho rằng thơ Tân hình thức dễ hiểu, dễ nhớ, hấp dẫn bởi tính truyện (TCT số 20, tr. 69). Chúng ta thử xem các đặc tính này trong vài bài thơ sau đây:

GIÓ LỐC LỀ ÐƯỜNG

Tôi xòe tay che mặt. Con lốc.
Xoáy tròn rác rưởi trên lề đường.
Ngưới đàn bà ngồi sau hàng ví
da phe phẩy cái khăn che mặt
mời chào uể oải. Mua bóp đi
cô. Tôi lắc đầu, mắt nhìn đống
rác nhảy múa với lá khô, trên
lề đường Tự Do. Trên lề đường
Ðồng Khởi. Lề đường có chỗ lát
gạch đỏ. Tôi nghĩ gì? Tôi không
nghĩ gì hết khi bước vào tiệm
sách của ngày xưa và của hiện
giờ. Những tiệm sách đã có lúc
đứng đọc cho hết một cuốn. Không
phải không tiền mua. Chỉ để giết
thì giờ thừa mứa tuổi trẻ không
chỗ đặt. Giờ tôi nghĩ gì? Tôi
không nghĩ gì hết. Không nghĩ được
gì hết. Không nghĩ ra điều gì
hết. Trong tôi, nặng đầy một nỗi
buồn bực. Một buồn bực. Như con
lốc hốt bụi ném rát mặt trên
lề đường Tự Do. Lề đường Ðồng
Khởi. Tôi nhíu mày xòe tay che
mắt. Ðể không thấy gì nữa hết.
Không phải thấy gì nữa hết.

(Nguyễn thị Ngọc Nhung, TCT 20, tr. 87)

KIỀU

Em đâu biết tiếng Anh,
chỉ bập bõm vài câu đâu hiểu hết.
Thiệt ra tụi em gặp nhau
chỉ có hai lần trong quán bún riêu,
sau đó cưới luôn. – Anh ấy
làm gì? – Thất nghiệp. – Biết vâïy sao vẫn
lấy? – Em mới học hết lớp
5, không việc làm,nhà nghèo, em đông.
Dạo đó, em nghĩ chỉ lấy
Tây là có thể giúp gia đình, đâu
ngờ khó khăn đến thế! – Sao
không về Mỹ? – Không nghề ngỗng, làm gì
có tiền để bảo lãnh em!
– Hiện giờ cuộc sống thế nào? – Thì phải
sống nhờ! Mỗi ngày ảnh phát
30 ngàn, bảo: Phải xài hết, không
thừa cũng không được thiếu. Vì
phải giúp gia đình, em nhịn buổi sáng;
trứa cơm hộp, tối cơm bụi
vỉa hè. Tằn tiện lắm mới dư được
ít ngàn nhưng nhờ người khác
giữ giùm, để anh ta thấy là bị
phạt ngay. – Bằng cách nào? Dường
như nhớ lại những trận đòn khủng
khiếp, X. rớm lệ: – Chẳng
hạn như cho ngửi mùi toa-lét, cắt
khẩu phần ăn hàng ngày, cởi
hết áo quần và đi vòng quanh phòng
lù lù sẵn đúc một tòa thiên nhiên
cho ảnh xem.

(trích Thủy Tiên, báo Công An số 783, ngày 16-10-99)
(Ðỗ Kh., TCT 18, tr. 111)

Tính nhạc :

Khế Iêm nói rằng “nếu thiếu nhạc tính, thơ sẽ chỉ còn là một đống ý tưởng và ngữ nghĩa, làm thất vọng người đọc” (TCT 19, tr. 97) và ông cho rằng thơ Tân hình thức có “sự réo rắt và luyến láy nhạc tính.” (TCT số 20, tr. 69)

Nguyễn Hoài Phương thì nói “Với thơ tân hình thức rất cần phải có một kỹ năng đọc. Ít nhất cũng phải đủ nhanh để không bị những ý tưởng dồn dập của bài thơ bỏ rơi qúa xa….Thứ nhạc trong thơ tân hình thức có lẽ là nhạc Ráp. Nó dồn dập như sóng, hết lớp này đến lớp khác và chập chùng miên man như biển khơi, hết đề tài này đến đề tài khác, hết sự kiện này đến sự kiện khác, qúa khứ, tương lai, hiện tại xoắn xuýt quện vào nhau trong một cấu trúc tự do, phóng khoáng đến tưởng như rất lỏng lẻo dễ dãi.” (TCT 20, tr. 211)

Ta hãy tìm nhạc tính trong bài “Kiều” ở trên và bài dưới đây.

NHỮNG NGƯỜI CHẾT TRẺ


  1. Nam, khoảng 32 tuổi, thể
    trạng trung bình, cao 1,65m,
    tóc đen cắt kiểu đầu đinh, da
    ngăm đen, ở trần, mặc quần đùi
    màu xanh lá chuối héo, có sọc
    nhiều mày, lông mày rậm rịt, lông
    ngực rịt rậm, mặt trung bình, dái
    tai trung bình, sống mũi lõm, nốt
    ruồi lấm tấm trên đầu lưỡi, chết
    tại km 1763,
    700 đường sắt Việt Nam thuộc
    khu Bình Triệu.

  2. Tử thi Nam, khoảng 37
    tuổi, chết rã rời trên xe xích
    lô đạp, không bảng số, cao
    1,60m, mặc áo sơmi
    dài tay đen trắng, quần jean xanh
    ve chai, bàn tay trái ngón 5
    cụt đốt 2 và 3, cẳng bàn
    tay phải có xâm chữ Hận Ðời
    Ðen Bạc, và chữ DH.

(Lê Thánh Thư, TCT 19, tr. 122)

Luật thơ :

a/ Trước hết nói về số chữ trong câu.

TCT thiên về thơ đều chữ và 7 hay 8 chữ trong mỗi câu thơ Tân hình thức. “Ðối với thơ Việt, khi dùng lại hình thức 7, 8 chữ hay lục bát là làm cho thị giác đỡ bị vướng mắc, dễ tạo nhạc tính, hình ảnh và áp dụng các yếu tố khác , qua đó người đọc đánh giá được tài năng và sức sáng tạo của người làm thơ.” (Thơ, TCT 19, tr. 99). “Thể thơ 7 hay 8 chữ tương đối hợp với ngôn ngữ nói hơn vì thật khó đưa những câu nói đời thường với vần vào lục bát.” (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 70)

Nhưng trong bài thơ dưới đây, ta lại thấy câu thơ cuối đoạn trở thành biến thể.

ÐÓ LÀ GIỌT MỰC

Những giọt mực lăn trong đời anh theo
vết chân từ những ngày hôm qua, hôm
kia, hôm nay và rồi anh tin sẽ
theo cả những ngày sắp tới, khi tiền
định không cho chúng ta hiểu thâm sâu
hơn, khi mắt nhìn bị che mờ giữa
các hàng chữ, khi tìm nhau sương khói
mịt mù từng kiếp và vẫn cứ xa
nhau lầm lạc

đó là giọt mực ân cần một thuở
làm thơ giữa những mùa xuân, hè, thu,
đông quanh năm đi tìm lại những lọn
bạc màu của tóc, khi nét chữ không
từ giấy bút mà từ những toàn thân
đầu mắt ngực môi tim của anh ngơ
ngác tuổi thanh xuân

đó là giọt mực đen chạy trong những
dòng thơ của anh và lăn rời khỏi
trang giấy, chạy miệt mài giữa phố để
rồi in lên đỏ môi hồng má em
những ngày giông bão xô về bứt rời
từng trang thơ anh của một thời
ngồi khóc giữa quê nhà

đó là giọt mực lăn chạy khỏi tay
anh và anh đuổi theo giữa phố đông
người mong tìm bắt lại nhưng rồi chợt
xô vào em một hôm để ngẩn ngơ
một đời tội nghiệp nhìn theo bên lời
xào xạc những kiếp xưa quạnh quẽ

đó là giọt mực loang đầy tay anh
những ngày đầu nắn nót tập vần và
không chịu bứt rời để một hôm thành
lời thật nhẹ nhàng dung chứa đại dương
với cá kình rủ về nằm yên để
anh ra ngồi giữa chợ nghe lời người
mắng mà cứ thấy là lời sóng ru
miệt mài không thôi

đó là giọt mực một hôm vào đời
đã đứng dậy thành người, thành em,
thành anh, thành cõi bờ, thành thế giới
để anh nhìn vào mắt em và thấy
mắt anh, mắt người với những lòng xót
thương cũng một màu đen, cũng một màu
đen lánh, cũng những ngàn thế giới không
khác biệt gì nhau

đó là giọt mực, đó là giọt mực
đã rơi từ thật xa xưa và vẫn
còn tươi mới – như lời của anh nói
với em hôm nay.

(Phan Tấn Hải, TCT 19, tr. 106-107)

Bài thơ này dùng câu 5 chữ:

ÐÊM NGOẠI TÌNH VỚI BÓNG

bằng những bước chân mèo
đêm tôi nhón nhén bước
vào thơ ngày cật tình
góp chữ đêm ôm nguyệt

sau hè. Em muộn phiền
đem giấu nỗi sầu riêng
tim, hạn hẹp, chữ đen
ngòm, thơ, che lòng bức
khức, tôi ôm thơ ngủ
qua đêm (nhắm hờ con
mắt trống) em cấu đêm
sau lưng khi tôi bỏ

đi tìm khởi hứng. Lúc
quay về trong bóng dày
của chữ của đêm và
của em. Lòng giấy kiệt

cùng thơ đỏ quặn tôi
khơi ngọn nến cùn đêm
ngoại tình với bóng tối
ngoại tình với thơ &
… với tôi.

(Nguyễn Tư Phương, TCT 19, tr. 117)

Với tác giả Nguyễn Ðăng Thường, bài “Chơi khôn” dùng câu 6 chữ (TCT 18, tr. 119) và bài “Chỉnh hình đón mùa Phục Sinh” dùng câu 10 chữ (TCT 18, tr. 118). Ðỗ Kh. và Nguyễn Thị Ngọc Nhung dùng cả thể lục bát.

KHANH

Em giận anh thì cũng đã
phải. Em còn nhìn anh thì em rộng
rãi. Ðam mê chẳng có bao
nhiêu, đời người, đụ mà sướng cũng chẳng
có nhiều….

(Ðỗ Kh., TCT 18, tr. 112)

b/ Vắt dòng

Ðây là cách xuống dòng hay nói theo TCT, cách vắt dòng.

Khế Iêm nhận rằng “trong thơ truyền thống và thơ tự do, hình thức của bài thơ chính là để cho chúng ta biết phải đọc bài thơ như thế nào” (TCT 17, tr 158). Trong thơ Tân hình thức, ông chủ trương “vắt dòng bất cứ chỗ nào trong câu, dòng trước tiếp theo dòng sau, và cách đọc không dừng lại cuối dòng” (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 69). “Khi dùng cách vắt dòng phá đi cách đọc dừng lại ở cuối dòng, người đọc bị thúc đẩy đi tìm lại phần đã mất (của câu), tốc độ đọc nhanh hơn, và phải đọc bằng mắt.” (Khế Iêm, TCT 18, tr. 97)

Trong các bài thơ trích dẫn ở đây, ta thấy các tác giả không những vắt dòng mà còn vắt qua đoạn khác.

c/ Vần

“[Trong thơ Tân hình thức] Ngay cả những quan niệm về vần cũng khác, không hẳn là chữ, mà còn là những nhóm chữ, câu, cảm xúc, và ý tưởng.” (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 69)

“Vần và chỗ ngắt không bất di bất dịch chỉ ở cuối dòng, mà cũng giống như thơ tự do, xuất hiện ở những chỗ không thể đoán trước.” (Khế Iêm, TCT số 18, tr. 97)

Nói rằng vần không ở cuối câu mà ở những chỗ không thể đoán trước, tức là vần nằm ở bất kỳ chỗ nào giữa câu.

d/ Thi pháp :

“Ðể cụ thể hóa, chúng ta thấy, vọng cổ khi dùng những câu nói đời thường phổ vào âm luật, khi ca lên, trở thành lời ca tiếng nhạc, không còn là những câu nói đời thường nữa. Như vậy khi áp dụng thi pháp đời thường, có nghiã là đưa những câu nói đời thường vào thơ để trở thành thơ, phải dựa theo những luật tắc của thơ, và đó là ý nghĩa của thơ Tân hình thức.” (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 70)

“Chữ nghĩa, hình ảnh bóng bẩy và cầu kỳ không còn, chỉ còn sự đơn giản, tự nhiên như một dòng đời sống…” (Khế Iêm, TCT số 18, tr. 97)

Chúng ta hãy thử tìm vần (không phải ở cuối câu) và xem thi pháp trong bài thơ của Khế Iêm:

ẢNH ẢO

Người đàn ông hai mươi năm sau nói
với người đàn ông hai mươi năm trước
rằng, trên băng ghế này, dưới bầu trời
này, đã hai mươi năm, mà vở tuồng

vẫn chưa được viết, và đêm kịch vẫn
chưa mở ra, những thùng rác vẫn chứa
rác và không chứa gì khác, những bước
chân lê trên lề đường, giấc ngủ trên

hè phố, những khớp xương đau, những khớp
xương đau, đã hai mươi năm; người đàn
ông hai mươi năm sau, kéo áo che
cái rét của đất ẩm, đo bằng gang

tay giữa đôi mắt cú vọ và chiếc
ngực đồi trụy, vớ lấy mớ bản thảo
xé nát rồi ráp lại, để tìm nơi
kẽ rách, lũ ký ức ôn dịch; nhưng

người đàn ông hai mươi năm trước, không
nghe, không thấy được gì từ người đàn
ông hai mươi năm sau, cứ lầm lũi,
lầm lũi, lầm lũi, tựa bóng ma, và

chẳng hề hay biết, người đàn ông hai
mươi năm trước cũng là người đàn ông
hai mươi năm sau, đang đợi nhau, đợi
nhau, đợi nhau, như cái sống đợi cái

chết, ròng rã, đã hai mươi năm, dù
vở tuồng vẫn chưa được viết, và đêm
kịch vẫn chưa mở ra, những thùng rác
vẫn chứa rác và không chứa gì khác.

NHẬN XÉT

A/ Tính truyện

Thơ thuật sự không mới mẻ gì trong thi ca với những thí dụ như Illiad, Odysey của Homer, Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. Gần đây thì có một số bài thơ nổi tiếng như Màu tím hoa sim của Hữu Loan.

Ngày xưa cổ nhân thường làm thơ vịnh, nào là vịnh người, vịnh cảnh, vịnh công việc, hay viết truyện thơ. Bây giờ hầu hết các nhà làm thơ Việt có tính hướng nội, chỉ nói về mình và những sự việc liên quan đến mình. Cho nên chiều hướng làm thơ thuật sự kể ra cũng là một đề tài nên khai thác, nhưng chuyên làm thơ thuật sự thì lại là một vấn đề cần suy nghĩ của thi sĩ .

B/ Tính khách quan

Thơ thuật sự truyền thống thường diễn tả cảnh vật, sự việc qua tâm hồn nhân vật, và tâm hồn nhân vật có thể chính là tâm hồn tác giả. Chính điều này tạo nên những lời thơ bóng bẩy, ý thơ hay và câu thơ được coi là có hồn.

Tự sự khách quan nghĩa là chỉ làm công việc của cái máy quay phim, quay những góc cạnh do tác giả chọn lựa với dụng ý. Người quay phim có thể là một nhân vật trong thơ hay một người vô hình hiện diện khắp nơi. Lời thơ mang tính khách quan, vô hồn, không giải thích, không bút pháp đặc biệt, chẳng khác gì lối văn của Alain-Robbe Grillet. Chính cái không giải thích này có thể làm cho bài thơ khó hiểu, trái với kỳ vọng về một sự trong sáng.

Người làm thơ chỉ chuyên về tính khách quan, rời bỏ những cảm tính chủ quan, không quan tâm đến những diễn biến nội tâm, tức là làm thui chột phần lớn tâm hồn của mình.

Tạp chí Thơ không nhắc gì đến tính khách quan trong tự sự, nhưng mặc nhiên chấp nhận nó.

C/ Tính nhạc

Nói rằng thơ Tân hình thức réo rắt, luyến láy, dồn dập như sóng, hết lớp này đến lớp khác và chập chùng miên man như biển khơi, là không thực tế nếu nhìn vào các bài thơ đã đăng. Trong ngôn ngữ thường ngày, âm thanh và nhịp điệu trong giọng nói của ta cũng thay đổi tùy theo tình huống vui, buồn hay giận dữ. Câu thơ diễn tả những tình huống đó cũng cần thay đổi, không phải lúc nào cũng réo rắt và dồn dập. Và cũng không phải chỉ trong thơ Tân hình thức mới có những tính nhạc này.

So sánh âm nhạc của Tân hình thức với vọng cổ là không đúng. Tuy rằng vọng cổ cũng dùng những lời nói bình thường, nhưng ở cuối câu bao giờ cũng có âm điệu nhất định mà người ta gọi là “xuống xề”. Còn nói rằng nhạc của Tân hình thức là nhạc rap , thì chỉ là cách nói “huề vốn”, cần gì đặt ra vấn đề nhạc tính nữa ?

Chỉ trích thơ tự do không có nhạc, chỉ có âm vang (TCT 17, tr. 165), để rồi rơi vào chính loại thơ chỉ có tiếng nói!

Nhà thơ Chân Phương trích dẫn ý kiến của Phan Ngọc (3) như sau : “Nhịp điệu là xương sống của thơ. Thơ có thể bỏ vần, bỏ quan hệ đều đặn về số chữ, bỏ mọi quy luật bằng trắc, nhưng không thể vứt bỏ nhịp điệu. Tôi không thấy một thể thơ nào có thể vứt bỏ nhịp điệu, tự xây dựng mình trên một tình trạng tùy hứng về nhịp điệu…Trong trường hợp tứ thơ không siêu việt cho lắm thì nhịp điệu lại càng cần thiết.” (TCT 18, tr. 6)

D/ Câu đều chữ

Về số chữ trong câu, thật ra chỉ có một mục đích là “làm cho thị giác đỡ bị vướng mắc” vì chiều dài của câu thơ (4). Muốn viết mỗi câu mấy chữ cũng được, cứ đếm đủ âm tiết là xuống dòng, còn dư bao nhiêu thì để vào dòng cuối của đoạn thơ.

“Ngôn ngữ càng đi gần về nguyên thủy càng có những nét tương đồng, chẳng hạn không nhấn [unstressed], nhấn [stressed] trong tiếng Anh có khác gì bằng trắc trong tiếng Việt, hay hai ngôn ngữ đều có những nguyên âm và phụ âm giống nhau. Với thơ Việt, nếu chỉ đếm chữ xuống hàng, thì chẳng khác nào thơ tự do trước đó, hết câu xuống hàng, vì thể luật đếm âm tiết không đủ sức để tạo thành nhịp điệu, và chỉ có công dụng làm cân bằng nhịp điệu tạo ra bởi ngữ điệu và cú pháp văn phạm (hoà hợp giữa ngôn ngữ nói và viết) (Khế Iêm, TCT số 20, tr. 69)

Tôi không hiểu tại sao Tạp chí Thơ cứ nhất định đòi đếm âm tiết (syllable) để vắt dòng, chứ không đếm chữ. Tiếng Việt là tiếng đơn âm, mỗi chữ là một âm tiết, cho nên đếm âm tiết hay đếm chữ cũng vậy thôi. Có phải đây là một bằng chứng về sự lệ thuộc thơ Mỹ trong quan niệm của Tạp chí Thơ hay không ?

E/ Vắt dòng

Trong thơ tự do, xuống dòng để thay cho cách chấm câu, để nhấn mạnh, để tạo nhịp, hay để trình bày theo một dụng ý nào đó. Cách dòng (skip line) là để qua một đoạn khác.

Trong thơ Tân hình thức, TCT chủ trương vắt dòng bất cứ chỗ nào và vắt luôn qua đoạn khác, khi đọc thì không ngừng lại ở cuối dòng. Như vậy thì cách vắt dòng này có ý nghĩa gì mà TCT đòi hỏi phải có kỹ thuật và kỹ thuật như thế nào ? Ðọc không ngừng lại ở cuối dòng thì khác nào đọc một đoạn thơ xuôi hay văn xuôi ?

Vắt dòng chẳng qua cho có hình thức thơ đều chữ. Nhưng ta đã thấy các tác giả Tân hình thức muốn dùng bao nhiêu chữ (hay âm tiết, nói theo TCT) trong một dòng cũng được. Vậy thì đều chữ để làm gì ? Không có tác dụng gì hết! Chẳng qua chỉ đánh lừa con mắt mà thôi. Vắt dòng hay viết luôn một mạch như thơ xuôi cũng thế thôi.

Chúng ta hãy thử đọc bài “Ðó là những giọt mực” của Phan Tấn Hải rồi đọc bài dưới đây viết lại theo kiểu thơ xuôi xem có gì khác nhau hay không.

Những giọt mực lăn trong đời anh theo vết chân từ những ngày hôm qua, hôm kia, hôm nay và rồi anh tin sẽ theo cả những ngày sắp tới, khi tiền định không cho chúng ta hiểu thâm sâu hơn, khi mắt nhìn bị che mờ giữa các hàng chữ, khi tìm nhau sương khói mịt mù từng kiếp và vẫn cứ xa nhau lầm lạc.

Ðó là giọt mực ân cần một thuở làm thơ giữa những mùa xuân, hè, thu, đông quanh năm đi tìm lại những lọn bạc màu của tóc, khi nét chữ không từ giấy bút mà từ những toàn thân đầu mắt ngực môi tim của anh ngơ ngác tuổi thanh xuân.

Ðó là giọt mực đen chạy trong những dòng thơ của anh và lăn rời khỏi trang giấy, chạy miệt mài giữa phố để rồi in lên đỏ môi hồng má em những ngày giông bão xô về bứt rời từng trang thơ anh của một thời ngồi khóc giữa quê nhà.

Ðó là giọt mực lăn chạy khỏi tay anh và anh đuổi theo giữa phố đông người mong tìm bắt lại nhưng rồi chợt xô vào em một hôm để ngẩn ngơ một đời tội nghiệp nhìn theo bên lời xào xạc những kiếp xưa quạnh quẽ.

Ðó là giọt mực loang đầy tay anh những ngày đầu nắn nót tập vần và không chịu bứt rời để một hôm thành lời thật nhẹ nhàng dung chứa đại dương với cá kình rủ về nằm yên để anh ra ngồi giữa chợ nghe lời người mắng mà cứ thấy là lời sóng ru miệt mài không thôi.

Ðó là giọt mực một hôm vào đời đã đứng dậy thành người, thành em, thành anh, thành cõi bờ, thành thế giới để anh nhìn vào mắt em và thấy mắt anh, mắt người với những lòng xót thương cũng một màu đen, cũng một màu đen lánh, cũng những ngàn thế giới không khác biệt gì nhau

Ðó là giọt mực, đó là giọt mực đã rơi từ thật xa xưa và vẫn còn tươi mới – như lời của anh nói với em hôm nay.

F/ Vần

Tạp chí Thơ cho rằng “Thơ tự do Việt đơn giản chỉ là loại thơ không vần” (TCT 17, tr. 165). Ðiều này thật hết sức nhầm lẫn trong định nghĩa (5) cũng như trong thực tế. Tuy rằng không có luật lệ ràng buộc thơ tự do, các bài thơ tự do vẫn ít nhiều có vần ở cuối câu. Chỉ riêng trong thơ xuôi, một hình thức của thơ tự do, mới không có vần, nhưng có thi pháp và nhạc điệu bù lại.

Tân hình thức Mỹ cũng thực hiện thơ có vần và vần đặt ở cuối câu, nhưng TCT lại “bảo hoàng hơn vua”, chủ trương vần không đặt ở cuối câu mà ở những chỗ bất ngờ, tức là bất kỳ chỗ nào trong câu. Lại còn nói “Ngay cả những quan niệm về vần cũng khác, không hẳn là chữ, mà còn là những nhóm chữ, câu, cảm xúc, và ý tưởng”. Thật là khó hiểu. Có lẽ TCT cho rằng những câu nói lập lại như trong bài dưới đây tạo thành vần của bài thơ chăng?

TÂN HÌNH THỨC VÀ CÂU CHUYỆN KỂ

Khi tôi ngồi uống cà phê ngoài lề
đường và kể lại câu chuyện đã được
kể lại, từ nhiều đời mà đời nào
cũng giống đời nào, mà lời nào cũng

giống lời nào, về người đàn bà và
đàn con nheo nhóc (nơi góc phố được
gọi là chỗ chết, nơi góc phố được
gọi là chỗ sống), kẻ những con đường kẻ

bằng than đen; gãy góc, xấu xí như
cái bóng trong tấm hình cũ, như dĩ
nhiên hôm nay ngày mai ngày mốt, như
thế thôi thì thế thôi, biết đâu chừng

nhưng người đàn bà và đàn con nheo
nhóc
, vẫn kể lại câu chuyện đã được
kể lại, và không ai, ngay cả người
đàn bà và đàn con nheo nhóc
, bước
ra ngoài câu chuyện đã được kể lại.

(Khế Iêm, TCT 18, tr. 105)

Vần kiểu này thì chỉ mang lại tính cách luộm thuộm, rườm rà mà thôi. Còn những bài thơ khác không có những từ lặp lại thì sao ? Ðộc giả thử tìm vần trong các bài thơ đó xem.

Bài dưới đây đặt vần ở cuối câu, nhưng khi đọc lên, ta phải đọc nhanh qua chữ đầu dòng dưới vì chúng thuộc một nhóm chữ không thể tách rời cho nên không thể được coi là có vần.

NHÌN THEO CHÙA CỔ QUÊ NHÀ

đi xuống phố nửa đêm tìm lại những
cái tôi nào của ngày trước với ngày
sau 
lối mịt mù trí nhớ mắt cay
sè 
đêm hạnh ngộ gương xưa mùa cổ
độ 
người một thuở ùa về chân
dung 
lạ còn ai đi giữa trần
gian 
soi lại gọi nửa đời lạ
lẫm 
gió hư vô đêm cũng lầm
lạc 
mãi chưa về tới thắp
đuốc 
chờ người mãi những mùa
xuân 
chút tình cờ mà gặp
gỡ 
một đời để hương lưu

giữ xanh vầng tóc trắng
………….

(Phan Tấn Hải, TCT 18, tr. 135)

Tóm lại. nhóm Tân hình thức cố gắng tạo ra một loại yêu vận tự do nhưng chưa thành công.

G/ Thi pháp

Tân hình thức chủ trương dùng những câu nói thường nhật và tôn trọng cú pháp văn phạm, nghĩa là gạt bỏ mọi bút pháp thay đổi vị trí từ ngữ. “Chữ nghĩa, hình ảnh bóng bẩy và cầu kỳ không còn, chỉ còn sự đơn giản, tự nhiên như một dòng đời sống…” . Lý do nêu lên là thơ truyền thống “mòn mỏi với vần điệu”, người làm thơ phải nặn óc tìm vần, tìm chữ, và “Nếu không mang được những câu nói thông thường vào thơ thì làm sao mang được đời sống vào thơ? Và nếu không, thì làm sao chia sẻ được với nỗi vui buồn của mọi tầng lớp thời đại?” (TCT 20, tr. 73)

Thơ luật và thơ tự do cũng không thiếu gì những bài dùng lối nói bình thường, nhưng thật ra đã rất chải chuốt, chọn lọc. Thơ Nguyên Sa là một ví dụ tiêu biểu.

Không có anh lấy ai đưa em đi học về
Lấy ai viết thư cho em mang vào lớp học
Ai lau mắt cho em ngồi khóc
Ai đưa em đi chơi trong chiều mưa

….

Tháng sáu trời mưa, trời mưa không ngớt
Trời không mưa anh cũng lạy trời mưa
Anh lạy trời mưa phong tỏa đường về
Và đêm ơi xin cứ dài vô tận

……..

Chào tháng Chạp, hôm nào thì đến Tết?
Em mặc áo xanh hay mặc áo thêu hồng
Bầu trời mây ở dưới áng mây cong
Em có muốn anh giữ giùm phân nửa?

Nhưng bình thường đến mức buông thả như văn xuôi – văn xuôi cũng có khi còn chải chuốt hơn -, có khi chỉ là một bài báo (như bài “Những người chết trẻ” của Lê Thánh Thư và “Kiều” của Ðỗ Kh.) thì thật là qúa đáng.

Xưa nay người ta yêu thơ không những vì ý thơ hay, mà còn vì lời hoa mỹ, chữ dùng mới lạ, bút pháp tân kỳ. Người ta không chỉ ngâm nga cả bài thơ mà còn trích dẫn từ ngữ, nhớ mãi trong tâm. Thơ Tân hình thức dùng lời lẽ đời thường, không thi pháp, thì còn cái gì cái gì để thưởng thức ? Chỉ còn cái hàm ý của cả bài thơ mà thôi. Nếu người đọc không tìm ra cái hàm ý này thì bài thơ chỉ để lại một con số không trong tâm trí.

Chân Phương đã nhận xét chí lý rằng : “Hình thức càng nôm na bình thường bao nhiêu, nội dung càng phải siêu việt bấy nhiêu, nếu không chỉ có thất bại.” (TCT 18, tr. 6)

Ðỗ Minh Tuấn có cái mộng ước cao xa như thế này : “Nhìn chung, thơ cũ giống như những vật cứng có quảng tính dễ đo đạc và dễ cắt tỉa ra chi tiết. Hiện tượng lảy ra một vài câu thơ hay để thưởng thức độc lập chỉ là dấu hiệu tố giác thơ ngày xưa không phải sự sống vô định mà cao nhật chỉ như những hòn ngọc trang sức ở trên thân thể đời sống. Thơ hay đích thực giống như một người đẹp ta không thể cắt ra cái mũi để khoe nhau. Thơ hay giống như một làn hương thông qua ám ảnh và lan tỏa không dễ gì thu gọn lại, rút tỉa ra một vài câu hay để thuộc lòng, để ngâm nga, để nhớ. Thơ hiện đại tỏa ra hương vị bí ẩn từ toàn bộ tác phẩm, mặc dù ta không thể nhớ một câu, một chữ.” (TCT 20, tr. 206). Rất tiếc là Tân hình thức chưa sản xuất được những bài thơ hay như thế, và dù cho có đi nữa, không phải chỉ Tân hình thức có thể làm hay như vậy được.

KẾT LUẬN

Trở lại với vấn đề phong trào Tân Hình Thức trong thơ Mỹ. Sự hình thành phong trào này bắt nguồn từ những nhận xét : a/ về sự trì trệ của thơ tự do, b/ về chủ nghĩa duy ngã, c/ thơ tự do khó nhớ vì thiếu vần điệu, nhạc tính. Phong trào không những muốn thay đổi về hình thức (thơ đều chữ, có vần, có nhạc) mà còn về nội dung (thuật sự, khách quan, trong sáng).

Tạp chí Thơ du nhập hoàn toàn các nhận định và chủ trương vào thi ca Việt.

Theo TCT, thơ cổ điển Việt Nam dựa vào luật bằng trắc, vần và cao độ (pitch, 4 level tone), dùng và chọn chữ, thơ Tiền Chiến dựa trên vần (thường là cước vận), trau chuốt chữ và cách đọc ngừng ở cuối dòng, thơ Tân hình thức “kết hợp với một số yếu tố và kỹ thuật của thơ tự do, phá vỡ những âm hưởng Tiền Chiến, chấm dứt nửa thế kỷ dậm chân tại chỗ của thơ Việt.” (Khế Iêm, TCT số 18, tr. 94).

TCT hết lời chỉ trích thơ tự do Việt trong 50 năm qua và đề cao Tân hình thức, nhưng cũng dành phần lớn số trang cho thơ tự do và lại còn nói rằng “mỗi thời kỳ, những nghệ sĩ tạo ra những quan điểm thẩm mỹ riêng, và không thể nào dùng quan điểm này để làm thước đo, phê bình hay so sánh với quan điểm khác” (TCT 20, tr. 72). Thật là mâu thuẫn.

Trong sự mô phỏng Tân hình thức Mỹ, TCT đề ra tính nhạc, câu đều chữ, vần, kỹ thuật vắt dòng và lời thơ “đời thường”, và còn tính tới chuyện dùng slant rhyme, bằng trắc theo cấu trúc iambic!

Câu đều chữ với kỹ thuật vắt dòng có thể chấp nhận được vì nó chỉ là sự trá hình của thơ xuôi. Do đó có vần hay không có vần cũng không thành vấn đề. Cái điều đáng nói ở đây là sự lạm dụng lời thơ “đời thường” một cách qúa đáng khiến bài thơ không còn nhạc tính.

Cái điều đáng nói thứ hai là đại ngôn. “Thơ tự do, sau một thế kỷ đã cạn nguồn và cùng kiệt, những nhà thơ Tân hình thức Hoa Kỳ chắt lọc từ truyền thống và tự do, để làm thành một hình thức tân kỳ hơn, thích nghi với cách diễn đạt mới, thì thơ Việt cũng mòn mỏi với vần điệu và tự do. Tân hình thức như một thời lãng mạn mới, một trật tự mới hay một nền ca dao mới trong một xã hội bình đẳng và dân chủ, lôi cuốn người đọc, làm phong phú đời sống và ngôn ngữ tự nhiên. “Chúng ta phải thức dậy hay chết”, đó là lời của nhà thơ Ý, Francesco Petrarch, người khai sinh ra thời đại Phục Hưng.” (TCT 20, tr. 70).

Tôi đồng ý rằng các bài thơ làm theo Tân hình thức có một nội dung mới lạ so với các bài thơ tự do. Mới lạ chỉ vì tác giả đưa văn xuôi vào thơ, hoàn toàn là văn xuôi!

Không thử nghiệm cái mới thì không có tiến bộ. Ðiều này đúng trong mọi lãnh vực. Mong rằng Tân hình thức sẽ có được những bài thơ đáp ứng lòng tự hào của nhóm chủ trương và lòng yêu thi ca của người Việt.

(Ghi chú : Bài này viết sau khi Tạp Chí Thơ ra số 20 năm 2001, sau đó tôi không theo dõi sự tiến triển của thơ tân hình thức trên TCT nữa)


Chú thích

Những chữ trong [ ] là chú thích của người viết.

(1) Meter là luật tắc về trọng âm và khinh âm (stressed and unstressed syllables) và số âm (syllable) trong mỗi câu thơ. Thơ luật của Mỹ cũng hợp vận (rhymed) giống như thơ đều chữ tiếng Việt : vần liền (hai vần liền nhau), vần cách (hai vần cách nhau một hàng: câu 1 vần với câu 3, câu 2 vần với câu 4, vân vân), vần ôm (trong 1 đoạn 4 câu, vần câu 1 hợp với vần câu 4, vần câu 2 hợp với vần câu 3). Không có yêu vận (vần giữa câu) như trong thơ lục bát hay song thất lục bát của ta.

(2) Trong cùng thập niên 1980, xuất hiện hai trường phái khác có chủ trương tương tự trong sự trở lại thơ truyền thống đều chữ có vần điệu và rời khỏi chủ nghiã duy ngã: New Narrative (Tân Thuật Sự) và Expansive Poetry (Thơ Mở Rộng). Cả hai thường được đồng hóa với New Formalism.

New Narrative đòi hỏi thơ có cốt truyện rõ rệt.

Về đường lối của Expansive Poetry thì một nhà thơ trong số sáng lập là Frederick Feirstein nói rõ đường lối của họ trong tiểu luận Expansive Poetry: Essays on the new Narrative and the New Formalism như sau:

“… the poets who joined the expansive movement have the following goals:
1. They want to say significant and passionate things about the larger world outside themselves.
2. They want to use all the resources of the craft, including meter, rhyme and dramatic and narrative structures.
3. In their imagery and subject matter, they strive to make easy reference to and use of science and technology.
4. They also strive for a poetic language that embraces colloquial American and combines it with meter to avoid using the awkward rhetorical patterns of free verse.
5. Yet, Expansive poets continue to use free verse when subject matters calls for it, and discuss free verse as one of the many forms available to the poet.

Phan Ngọc, Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, Hà Nội, 1985, 213-214.

“Thơ tự do (trong ngôn ngữ tiếng Anh) làm khó người đọc, vì tùy thuộc vào sự căng thẳng hay sức ép giữa văn phạm và chiều dài của dòng, của đoạn thơ.” (Khế Iêm, TCT 18, tr. 96)

– Free verse is a term loosely used for rhymed or unrhymed verse made free of conventional and traditional limitations and restrictions in regard to metrical structure. (Columbia Encyclopedia, Sixth Edition 2001) (http://www.encyclopedia.com/articles/04736.html)

– Free verse is poetry organized to the cadences of speech and image patterns rather than according to a regular metrical scheme. It is “free” only in a relative sense. It does not have the steady, abstract rhythm of traditional poetry; its rhythms are based on patterned elements such as sounds, words, phrases, sentences, and paragraphs, rather than on the traditional prosodic units of metrical feet per line. (Britannica Encyclopedia)

– The rhythm or cadence of free verse varies throughout the poem (http://library.thinkquest.org/3721/poems/forms/free.html?clkd=iwm)

– Rhyme may or may not be present in free verse, but when it is, it is used with great freedom. (http://www.english.upenn.edu/~afilreis/88/freeverse.html?clkd=iwm)

– Free verse is sometimes confused with blank verse, which does not rhyme but has a set metrical pattern. Free verse, on the other hand, has no rules whatsoever. The lines are irregular and may or may not rhyme . (The UVic Writer’s Guide) (http://www.clearcf.uvic.ca/writersguide/Pages/ LTFreeVerse.html)


Bài cũ lấy từ trang: http://www.goctroivienxu.com/

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Latest Articles

TUẦN THƠ 07: Thơ Nguyễn Văn Vũ

Thơ Nguyễn Văn Vũ _________________   VÒNG HOA TRÊN MỘ đôi mắt buồn...

Review “Thơ kể” Poetry Narrates

William Noseworthy University of Wisconsin-Madison Review Thơ Kể: Tuyển Tập Thơ Tân...

ĐÔI NÉT VỀ HIP HOP

Giới thiệu Diễn Đàn Thơ Tân hình thức Việt __________________________________ wwww.thotanhinhthucviet.com ĐÔI...

Câu hát dòng Lam

Câu hát dòng Lam Bùi Minh Huệ Từ thuở nhỏ, tôi...

Related Articles

PHÂN TÂM HỌC VÀ THƠ

PHÂN TÂM HỌC VÀ THƠ Frederick Feirstein Hơn vài mươi năm qua, một trong cách biện minh cho việc từ bỏ các kỹ thuật “hình thức”...

CHỦ NGHĨA TOÀN THỂ HÌNH THỨC MỘT TUYÊN NGÔN – ANNIE FINCH

Gặp nhau để ăn mừng việc xuất bản tuyển tập trên, chúng tôi hai đứa nguệch ngoạc bản sơ thảo của tuyên ngôn này trên một tờ giấy ăn trong một quán lau ở tiểu bang New Orleans, Hoa Kỳ.

TẾT RỒI ĐÓ EM

Nguyễn Văn Vũ TẾT RỒI ĐÓ EM buông tay ra cho bóng vía bay khỏi đêm ba mươi xóa đường chân trời đi cho mặt trời đừng ngại ngùng...