Nguyễn Lương Ba
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ Nguyễn Đạt xuất hiện đều trên các tạp chí văn học ở hải ngoại. Người đọc rất quen thuộc với tên tuổi của anh như một nhà thơ đặc sắc luôn dấu mình trong những dòng chữ buồn, cô đơn và cuối cùng là một nỗi ám ảnh nào đó không rõ về thân phận, về cuộc sống như tiếng kêu vang lên trong thơ anh.
Anh sống và được nuôi dưỡng trong dòng văn học miền Nam vào giai đoạn tạp chí Sáng Tạo đẩy mạnh phong trào thơ tự do. Năm 1960 anh gửi bài thơ đầu tiên đến tờ Ngàn Khơi (của thi sĩ Trần Dạ Từ) nhưng bài thơ đã không được đăng. Từ đó anh không viết nữa. Mãi đến năm 1963, anh mới sinh hoạt văn nghệ trở lại trên tờ đặc san của trường trung học Chu Văn An ở Sàigòn với bài thơ ngắn 5 chữ. Nhà thơ Viên Linh khi làm tờ Nghệ Thuật đã đọc được thơ của anh đăng trên tờ Đặc san của trường Đại học Văn khoa Sàigòn, đã gọi anh gửi bài. Từ đó anh bước vào sinh hoạt văn học miềnNam như một nhà thơ trẻ có tiếng nói u uẩn, đầy bi kịch trong thơ của anh. Và lần lượt anh đã có thơ trên các tạp chí nổi tiếng như Nghệ Thuật, Khởi Hành, Văn…
Anh theo học ban Triết Tây tại trường Đại học Văn khoa Sàigòn và đã cùng một nhóm bạn chủ trương tờ tập san Văn Chương gồm: Joseph Huỳnh Văn, Nguyễn Tử Lộc, Nguyễn Quốc Trụ, Phạm Kiều Tùng, Nguyễn Tường Giang, Nguyễn Nghiệp Nhượng, Phạm Thiên Thư, Phạm Hoán. Chủ trương biên tập: Joseph Huỳnh Văn (đã từ trần). Tạp san Văn Chương ra được 5 số. Số đầu tiên ra vào tháng 5/1973 và số cuối cùng tháng 11/1974. Và cũng từ tạp san Văn Chương, Nguyễn Đạt bắt đầu viết truyện. Truyện ngắn “Đại Hồ Cầm” của anh đăng trong tạp san Văn Chương số cuối cùng đã gây được tiếng vang thời đó.
Về cuộc sống cá nhân, anh thích lang thang đây đó, bạn bè hàng quán. Nhìn anh có vẻ khinh khỉnh bề ngoài nhưng lòng anh luôn đầy ắp những tình tự viễn mơ. Anh thích sống mạo hiểm, phiêu lưu, bung tìm những cảm giác mạnh đầy bấp bênh. Trước khi đến với văn chương, anh đã theo học lớp quyền anh, thụ giáo ở lò võ của võ sư người Việt gốc Hoa Lương Kế Chính. Anh đã thử thượng đài một hai lần nhưng ông thầy không muốn cho anh tiếp tục vì cho rằng anh không có cái trán nhô ra, cặp mắt hơi bị lộ, có nguy cơ nếu trúng đòn sẽ vỡ con ngươi. Nhà thơ Viên Linh trong một bài viết đăng trên Khởi Hành số 20 (tháng 6/98) có cho rằng Nguyễn Đạt tuy tài hoa nhưng có vẻ hơi khinh bạc. Tôi hỏi anh nghĩ thế nào? Nguyễn Đạt trả lời như sau: “Tôi nghiệm về tôi thấy mình chưa từng như vậy. Tất nhiên trong một chuyện cụ thể nào đấy, qua một hành vi biểu hiện nào đấy, có thể tôi đã gây ngộ nhận. Nhưng bản chất con người tôi, tôi không phải là kẻ khinh bạc.”
Nguyễn Đạt chuyên về thơ tự do và thơ đều chân (néo-classic). Rất ít làm thơ lục bát. Anh quan niệm chỉ với thơ tự do mới mang tính triệt để sáng tạo. Thơ anh thường chất chứa niềm u ẩn, nhiều tâm sự hay dằn vặt nào đó ám ảnh suốt trên nhữn chặng đường thi ca của anh. Anh thường nói về chính mình trong thơ mà người đọc rất khó nhận biết bởi đâu anh đã mang một tâm trạng u hoài như vậy. Về sự cô đơn anh tự mang lấy giữa một vùng rừng núi hoang dã:
Rừng thôn Đại Ninh xanh sốt rét
Co ro cùng tôi bên chân cầu
Nước thác thượng nguồn nào ai biết
Tan cùng vỡ vụn dưới lòng sâu
Tan cùng hồn thi sĩ nghiêm sâu
Cơn đau lòng đá nước dồn dập
Núi vỡ lên rừng thông chất ngất
Tôi về co cúm bên chân cầu
Tôi về ai biết bởi vì đâu
Bởi đâu rừng Đại Ninh sốt rét
Một đêm liêu vắng lưng chừng đồi
Người thiếu phụ bí mật bốn hai
Và rừng Đại Ninh thông sốt rét
Và núi Đại Ninh đau thấp khớp
Buốt rên chỉ có một mình tôi
Một mình tôi một mình tôi thôi
Với giấc phù du với mộng ảo
Những tầng mây và những đỉnh trời
Cao ngất như Đại Ninh sốt rét
Co ro người thi sĩ ai hay
Cho dẫu người góa phụ bốn hai
Mở cửa liêu vắng nhìn huyễn hoặc
Bởi đâu rừng Đại Ninh chất ngất.
(Chất Ngất Rừng Đại Ninh)
Tiếng kêu hay tiếng la đó ắt hẳn là không chia sẻ với bất cứ ai. Anh ôm lấy co quắp giữa cơn buốt lạnh của núi rừng.
Và ở một khu rừng khác:
Rừng Giá Tỵ suốt một mùa trút lá
Cây lá xương nắng lửa cháy thâu ngày
Vẫn tôi lơ ngơ kiếm tìm chi thế
Vẫn nắng lửa kia thiêu đốt rừng cây
Vẫn đáy giếng soi mặt người thuở nọ
Mạch nước khô lâu mùa hạ năm nào
Và lá lớn như chiếc tàn che phủ
Chưa dấu xong câu chuyện cũ buồn đau
Sao tôi ghé về đây rừng Giá Tỵ
Tìm kiếm chi trong lớp bụi mù bay
Không một tiếng dù thì thầm của gió
Đang lướt qua rừng Giá Tỵ trưa nay.
(Ghé Lại Rừng Giá Tỵ)
Trong thơ anh, hình ảnh thật xa vắng, quạnh quẽ. Khu rừng không có ai, một nơi đến để tìm kiếm sự mất mát, để khơi dậy một kỷ niệm nào đó đã làm nhức nhối con tim tác giả. Người đọc bàng hoàng và xúc động trước cái vẻ đẹp buồn bã được phác họa tài tình qua những vần thơ cốt lõi nắm bắt được sự sống trong một khu rừng đã chết.
Đọc tập thơ “Nơi Giá Băng” của anh, rất nhiều bài nói về Đơn Dương, một vùng rừng núi ở cao nguyên Lâm Viên (Đà Lạt). Nguyễn Đạt sinh quán ở miền Bắc nhưng anh vẫn thích tự nhận mình như một người miền Nam sinh quán ở Đơn Dương. Ở anh có nhiều kỷ niệm sâu sắc về một mối tình dang dở với một cô gái người Thái trắng tên Uyên. Chính mối tình này đã đẩy anh vấp ngã. Day dứt và ám ảnh vì đoạn kết oái oăm của cuộc tình:
Gió Than Uyên về buốt đêm Đơn Dương
Sao mai ôm tịch mịch cây rừng
Lẻ loi linh hồn hai mươi tám tuổi
Hai mươi tám năm đau đớn thống khổ
Như núi rừng vời vợi điêu linh
Em cứ thả tóc mãi Uyên
Em cứ thả tóc kéo tuột đời anh
Không hờn oán không than van
Bởi niềm an ủi một đêm trăng rừng
Bầy thông reo hò cho anh chạy tới
Cho đời thôi tê buốt gió Than Uyên
Cho em thỏa dạ tình yêu anh
Ôi vì sao mai còn đứng đó
Mãi mãi rừng Đơn Dương chứng kiến
Anh quỳ xuống ngàn lần thú tội
Y xô đẩy em từ chóp đỉnh hạnh phúc
Y xô đẩy em xuống lòng thác
Ôi vì sao mai gió Than Uyên
Y đắp mộ y trên đồi Đơn Dương.
(Gió Than Uyên)
Anh rời Đơn Dương rồi trở lại Đơn Dương như một nỗi chết không rời. Vì thế:
Đêm tối như rừng cây rừng cây
Đốm lửa đỏ soi trên mặt buồn phiền
Nằm ngủ khi không tràn nước mắt
Nằm ngủ co tay ôm lấy mình.
(Đêm Đơn Dương)
Cuộc tình thầm vỡ đó, trong một giai đoạn đã làm thơ anh điêu đứng. Anh luôn bị chìm ngập trong những thao thức dày vò về một nơi chốn. Nơi chốn nào để thơ cư ngụ. Anh đã chọn Đơn Dương. Và thơ anh đã ứa máu:
Em thơ ngây rạng rỡ
Em ngồi ngoan thơ thẩn trước đàn
Em run rẩy những cuộc tình thầm vỡ
Em nghe thấy chăng
Những đêm hoang vu gió lóc thịt xương
Dưới một cành thông buốt nhọn ở Đơn Dương
Anh đứng trầm mình trong nỗi tự sát và yêu em.
(Trích đoạn Đơn Dương)
Đây là đoạn đời gay go của nhà thơ Nguyễn Đạt. Anh sống lẫn lộn giữa thực và mộng, kết hợp từ bản tính sôi nổi và những ước muốn tự thân. Mà kẻ sôi nổi thì lại lắm khi ủ rũ, buồn rầu. Hoàn cảnh rồi cũng qua đi, đổi khác nhưng con người lại rất khó chuyển đổi:
Làm sao tôi giống được mọi người
Tôi
Tật nguyền trọn vẹn cô đặc từ
Thuở sơ nguyên nào chả biết.
(Ngộ Nhận)
Tật nguyền trọn vẹn của chính anh là sự vùng vẫy bất tận trong cái bi đát ở đời:
Tôi bơi
Hóa ra ngược dòng
gặp vô số cọc ngầm
Tôi vỡ đôi
Nửa tôi điên cuồng cơn lốc
Quay nhanh cái trục hiện tại
Nửa tôi chia mười
Phiêu tán các miền
Tôi mò
Những cọc ngầm
Sức bền của chúng hay sự ngộ nhận
Chúng bền như mùn rữa để tồn tại sau cùng
Tôi được sinh
Được đặt tên như bài thơ tự do
Được nuôi nấng giữa băng giá.
(Tự Sự)
Sau 75, cuộc sống của anh gặp khó khăn hơn, anh phải đi đây đó để kiếm sống. Có thời gian anh lại luẩn quẩn ở vùng rừng núi Đơn Dương, đem nhặt những trái thông khô đem bán:
Tàn hơi tàn hơi không rã nát
Quả khô hằng kiếp vây linh hồn
Tôi về nghe ngóng mùa thiêu đốt
Tôi về theo hẹn với rừng thông
Quả khô quả khô không chờ mong
Mùa dẫn tôi về nhặt trái rớt
Năm xưa hẹn năm sau hóa kiếp
Linh hồn hẹn linh hồn phục sinh
Tôi về Đa Thọ lên Đơn Dương
Chiếc gùi năm xưa mang trên lưng
Nhặt nhặt quả khô lòng chẳng chật
Rơi rơi linh hồn không nguôi ngưng.
( Khúc Hát Quả Thông)
Anh không có làm việc gì khác ngoài công việc tận tụy với văn chương. Vì hế anh vẫn luôn sống trong khắc khổ và đạm bạc. Anh phải sống có nghĩa là anh sẽ tiếp tục viết dù anh biết rất rõ anh sẽ nghèo biết là chừng nào. Kể từ khi anh lập gia đình (1984) anh mới thấy rõ hơn sự bất lực của chính mình trong mưu sinh. Vợ anh là một cô giáo đã đảm đang mọi công việc trong gia đình. Hãy nghe anh nói về gia cảnh của mình:
Chán mảnh dẻ như sậy
Con thêm tuổi thêm gầy
Dung nhan nhòa bụi phấn
Cô giáo ấy là ai
Tôi rong rêu ngày tháng
Trơn đẩy bước thêm sai
Con ngó cha hốt hoảng
Cô giáo quên chấm bài
Cô giáo ấy là ai
Tôi là ai nữa vậy
May đã có căn nhà
Nhiều năm che dấu hỏi
Sự thật ở trong kia
Sự thật ở ngoài kia
May đấy có căn nhà
Chia đều hai mái che.
(Cảm Thán Mới)
Tuy sự thật là như thế nhưng mặt khác hình như anh cũng muốn làm lại với thơ như một khoảnh khắc khác. Khoảnh khắc của sự tồn tại phơi mở đương nhiên:
Buổi sáng òa vỡ trên mái ngói
Đàn chân chim mới tinh
Nỗi buồn biến thành tiền kiếp
Hồn sơ sinh
Phủ trùm chiếc áo mùa đông
Anh nhận chẳng ra em
Cười tung lồng ngực
Mở cửa tim
Thiệt tình anh chẳng nhận ra em
Cùng chấm bụi đen
Đã lẫn vào vô tận.
(Khúc Hát Sớm Mai)
Và những lời thơ giữa một đêm thật khuya:
Đêm
Các thứ đều im lặng
Trừ gió
Niềm an ủi dịu dàng
Gió từ miền hiu quạnh của trời
Nơi vì sao run rẩy
Tràn vào miền hiu quạnh đời tôi
Thấy em
Như một lời thú tội
Tình yêu ở ngoài biên giới
Ở vô cùng
Đêm còn gió nổi
Nơi vì sao đã nguội tắt
Tràn vào hồn tôi mãi.
Dù đêm hay ngày, ngay cả khi tác giả có vẻ hưng phấn, nỗi cô đơn vẫn bao trùm. Như vậy trải qua giai đoạn khủng khoảng ray rứt cho đến thời kỳ an tâm hơn, thơ Nguyễn Đạt vẫn là tiếng nói của nỗi cô đơn bất kể trạng thái tâm lý của tác giả. Loang ướt thâm nhập làm bùng vỡ lên những lời thơ đớn đau đầy ám ảnh, truy hỏi về thân phận, về cuộc sống mà sự bi thảm đã bị đóng đinh. Nói một cách khác, thực tế cuộc sống và nỗi chịu đựng của con người không đồng đều tạo nên dòng thơ Nguyễn Đạt. Và trên các chặng đường phiêu lưu của anh, Nguyễn Đạt đã là một thi sĩ mà lời thơ còn vấn vương lòng người, tuy thoáng nhẹ mà phải nghĩ suy.
Nguyễn Lương Ba