THÂN THỂ CỦA THƠ (THE BODY OF POETRY)

(Luận văn về phụ nữ, hình thức, và tự thân thi ca)

Annie Finch (2005) – Đại học Michigan


Kể từ chủ nghĩa Lãng mạn, vận động thống ngự của thơ đã bao gồm một sự thúc đẩy liên tục để vượt thoát khỏi sự giới hạn thể hình minh định của nghệ thuật, từ sự tháo gỡ của Wordsworth về ngôn từ ‘thi ca’ để ưa chuộng một ngôn ngữ của ‘một người nói với các người’ qua sự vượt thoát khỏi vận luật trong cuộc cách mạng của thể thơ tự do (free-verse revolution) và của dòng trong thể thơ phóng chiếu (projective verse) [tức là vắt dòng – enjambment]. Những ai chạm gần đáy nhất của tiến trình này đã là hiển nhiên trong sự vượt thoát khỏi tiếng nói trong thi pháp cắt dán (collage poetics) và khỏi cú pháp trong thi pháp phần mảnh hoặc dán cách (fractal or disjunctive poetics), nó hiện gồm không gian riêng của nó để vượt thoát thêm nữa: những phá vỡ được lặp lại ngay bên trong bình diện của ngôn ngữ.

Trong suốt cũng hai thế kỉ đó thơ trữ tình (lyric poetry), giống như những nghệ thuật khác, phải tới phần nào làm tròn vai trò của tông giáo trong đời sống tâm linh của nhiều nhà nhân văn thế tục có học. Khi tự thân cá thể hoá đã ngày càng mang lấy sự tạo nghĩa gần như tông giáo qua những vận động của chủ nghĩa Lãng mạn và chủ nghĩa Hiện đại (hãy so sánh thi cả cổ đại hoặc thậm chí trung cổ tự lấy tâm điểm trong quy ước xã hội và những ám thị/ điển cố – allusions – hơn là viễn kiến cá thể hoá của tự thân), những nền tảng cấu trúc của thi ca đã được tái tổ chức để phản ánh một sự nhấn mạnh mới về sự trải nghiệm của linh hồn cá nhân, và trên một mĩ học của vượt thoát như là đối lập với sự nội tại. Vậy nên, trớ trêu thay, thi ca trữ tình tự thân đã mang lấy những đặc trưng tâm linh và siêu hình chủ chốt của truyền thống tông giáo thống ngự. Những sự tự đảm đương không được nói ra này đã đến thống trị cả thi pháp đương đại chủ lưu và ‘tiền-vệ’, một tình huống với những hàm nghĩa không chỉ cho nội dung của thi ca có định hướng tâm linh, mà còn cả cho thi pháp trên một bình diện sâu hơn cả bình diện về nội dung tông giáo.

Trong thi ca kể việc thể tự do đương đại (contemporary free-verse anecdotal poetry), cái kiểu thức mà Ron Silliman, nói gót Edgar Allan Poe, đã gọi là “trường phái thanh tịnh” (the school of quietude), sự thành thật bề ngoài của tự thân cá nhân, hoặc linh hồn, trở nên tiêu chuẩn trung tâm của thi ca vượt thoát, một địa điểm của sự vật luyến tâm linh (spiritual fetishization). Mọi nhân tố khác – hình thức, ngữ cách, hình tượng, chủ đề, thanh điệu – đều bị gộp trong sự phục vụ cho hiệu quả này. Mặt khác, trong trường hợp của nhiều thi ca tiền vệ, gồm những nhà thơ tâm linh- thử nghiệm như Fanny Howe và Ann Lauterbach, những hình dạng tự phát của một thi ca ngày càng gián cách được gọi lên như một phương tiện để chiêu cầu cái không thể biểu hiện vượt thoát, một ân sủng thách đố và tràn lướt ngôn ngữ.

Cả hai loại thi ca này chiếm được sự chân chính trong mắt người đọc đến mức độ chúng dường như bỏ lại sau hoặc vượt thoát, ‘bài thơ’ như một nhân tạo, một mảnh gia công của ngôn ngữ với những quy ước của nó về ngữ cách và nhịp điệu và những đặc trưng về cấu trúc có thể nhận ra, tách biệt. Việc tự thân tâm linh này hoặc đối tượng vượt thoát của nó có là trung tâm của một bài thơ đương đại hay không, dù ở trường hợp nào trong cả hai thứ này thì cái thân thể xúc cảm của bài thơ, và cái ngôn ngữ xây dựng nó, đều là bên ngoài chủ điểm, đối với luôn cả những nhà phê bình chủ lưu và tiền vệ. Cho dù được thanh tẩy bằng nhiệt tâm Thanh giáo về bất cứ gì phá rối dòng chảy ngôn ngữ trần tục với hơi hướm của chất ‘thi ca’ về một mặt, hoặc là ‘gẫy vụn’, ‘mảnh mún,’ ‘ngắt ngang’ với sự bạo động không mỏi mệt về mặt khác, thân thể của bài thơ đã đến chỗ bị khinh miệt bởi văn hoá văn học (literary culture).

Trong cái mà tôi đã đến việc định danh là một nền tâm linh hướng về Nữ thần (a Goddess-oriented spirituality) thái độ đối với thân thể thì đối nghịch với cái trong truyền thống Do thái-Kitô chủ lưu. Đất bụi, máu, tính dục, linh hồn, trái đất, cái chết, con vật không được phó cho việc phải vượt thoát; như là những thể hiện của cái thiêng liêng nội tại, bằng sự mở rộng chúng cũng là thiêng liêng. Những truyền thống của Kitô giáo, Phật giáo, và những tông giáo khác có thể bảo chúng ta một cách huyền bí rằng Thượng đế hiện diện trong vạn vật (“Tôi kín nước, tôi chẻ củi; đó là sự cầu nguyện của tôi,” đó là lời của nhà tu trong một trong những truyện ngắn tôi ưa thích nhất thuở đầu đời) nhưng khái niệm về Nữ thần thực sự cấu thành một sự hiện diện vật thể. Không chỉ là Nữ thần của thế giới, thế giới chính là sự hiển thị của bà. Mặc dù nam thần siêu việt và nữ thần nội tại là những mặt bổ túc của cùng một đồng tiền tâm linh con người, những ngân vang của họ khác nhau một cách nền tảng.

Trong thi pháp của nữ thần học (thealogy) đối lập với nam thần học (theology), những kết nối về hình dạng và căn cước bên trong và giữa các bài thơ không phải là những bối rối ngẫu nhiên, mà là những mối thân thuộc then chốt. Một điều là, giàn xương cốt dạng thức tạo ra sự mạch lạc ban cho tự thân cái công năng buông xả một căn cước đơn độc hướng về cái tôi (a single, ego-oriented identity) bên trong cái căn cước lớn hơn của một hình dạng có dạng thức. Vượt thoát không phải là cung cách duy nhất ra khỏi tự thân; còn có vài cung cách để lột da một linh hồn. Và sự kết nối cùng sự khác biệt giữa những hình thức và hình dạng của những bài thơ đa dạng, giống như sự đa dạng của các chủng loại, làm hiển lộ bản tính đa giá trị của cái thiêng liêng. Trong ngữ cảnh này, viết một bài thơ như một bài thơ cá thể được hình thành một cách riêng biệt, chỉ hợp nhất với những bài thơ khác trong tương quan với một sự vô thể trừu tượng đơn độc (a single abstract formlessness), hẳn là hi sinh sự kết thức của tính chuyên biệt và sự đa phức của những cấu trúc có dạng thức và hình thức cho cái lên thành một thứ chủ nghĩa độc thần trong thể thơ tự do (free-verse monotheism).

Trong văn hoá văn học đương đại, một truyền thống mạnh mẽ thi ca hình thức có dạng thức (a powerful patterned formal poetic tradition) vẫn còn được kết hợp mạnh mẽ với cái thế giới văn học bị nam giới thống ngự, tiền nữ quyền (the pre-feminist, male-dominated literary world) của thập niên 1950. Không chỉ là nhiều người theo chủ nghĩa nữ quyền ngần ngại viết những bài thơ hình thức (mặc dù điều này đã bắt đầu thay đổi với sự chuyển thiên niên kỉ); thường khi, những động cơ vặn vẹo hoặc phản động vẫn còn bị gán cho những người làm như vậy. Động cơ của riêng tôi khi viết theo hình thức là một sản phẩm của động cơ sáng tạo. Một hấp lực không thể kháng cự hướng về cái thân quen không thể tránh kéo tôi bằng sự nhất tâm không lời hướng về một cái gì xưa hơn là thi pháp phụ quyền (patriarchal poetics). Đây là điều tôi coi là “Tay Nghề” (the Craft), để dùng một từ ngữ xưa cho một sự hiến mình thể hiện đam mê tới nỗi nó đạt tới tầm vóc của một tông giáo trong sự phục vụ Nữ thần. Khi tôi đặt ra một khổ thơ, hiệp một vần, đặt thông một tiết điệu về câu chữ, tôi cảm thấy về mặt tâm linh được kết nối với những truyền thống vượt thời gian của những tay nghề khắp thế giới như là nghề thêu, nghề dệt, và nghề gốm. Tôi cảm thấy được kết nối không chỉ với những nghệ nhân Tiền-Raphael [nhóm hoạ sĩ nước Anh ở thế kỉ 19 đề xướng việc bắt chước nghệ thuật đơn sơ và chân thành, màu sáng, nét mạnh, chú ý chi tiết của các hoạ sĩ Italia trước thời hoạ sĩ Raphael để chống sự bóng bẩy và sướt mướt của nghệ thuật thời Nữ hoàng Victoria] hoặc những người chép sách thời trung cổ, mà còn với những người đan một tấm thảm Turki hoặc hoa tai Celt, bộc lộ niềm vui trung tâm của việc thờ phụng bằng trổ tay nghề làm một vật thể xứng đáng.

Những thi pháp của tâm linh nội tại quan tâm nhiều hơn tới tính bền vững (vốn bằng bản tính – trong cái nghĩa hữu cơ, nghĩa đen theo nghĩa của từ ngữ này – gợi ra sự kiên trì) hơn là với những khái niệm đương đại về tiến bộ. Như tôi sẽ định nghĩa nó “thi pháp nữ thần” (goddess poetics) cử hành và được tạo bằng cái chơi vui và cái vật thể. Tôi bị đưa dẫn đến lưu luyến trong vần thơ và điệp cách, tới vẻ huy hoàng trong những nghệ pháp gây ngạc nhiên của thân thể thi ca. Những nghệ pháp của hình thức này cung ứng một nguồn mạch cho sức mạnh tâm linh trong và bằng tự thân chúng. Điều lệnh tâm linh của lạc thú tự tại của hình thức, như tôi đã hiểu được nó, từ lâu đã kéo tôi về một thi pháp đối lập tự đặt cơ sở trong những đặc thù nội tại của cấu trúc thi ca: dạng thức, điệp cách, bùa mê, hấp lực, tụng ca:

LỄ TỤNG

Từ nhạc tôi mang

mấy cái vây vàng đá

nhưng chúng chìm đi

qua những chỗ cạn ba hoa.

Từ tự nhiên tôi lượm

chút hi vọng hạt lúa

nhưng nó ven nghỉm đi

trong những chén đá chìm.

Vậy rồi tôi hỏi

xin chén và vây

xin một bàn tay

có thể lay chúng về

thành vây vượt cạn,

lượn, quanh;

tôi đoán một bàn tay,

có thể gom những chén mở ngỏ.

Khi tôi đã xin

người tôi đã đoán,

nàng đã gửi lời xin của tôi đi;

và rồi và nữa

nay nàng gửi nó về.

Rồi và nữa nó đáp lời tôi;

rồi và nữa nó đáp lời, như nàng ban nó,

trong tiếng vây và trong tiếng chén.

LITURGY

From music I bore

some gold-stone fins,

but they sank away

through the waffled shallows.

From nature I gleaned

some hope of rice,

but it edged deep away

in sunk stone bowls.

So then I asked

for bowls and fins,

asked a hand

that could startle them back

into finning the shallows,

gilding, rounding;

I guessed a hand

that could gather bowls open.

When I had asked

whom I had guessed,

she sent my asking out;

and over and over

she sends it back.

Over and over it answers me;

over and over it answers, as she gives it,

in the speech of fins and in the speech of bowls.


Xuất bản gốc nơi tạp chí Văn học Đại học Yale (Yale Lit), số Mùa hè năm 1978.

Nguồn: http://libgen.info/view.php?id=693001

Tài sản càng chia càng nhỏ. Trí tuệ càng nhân càng lớn (holieu.org)

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Latest Articles

TUẦN THƠ 31: THƠ VƯƠNG NGỌC MINH 3

VƯƠNG NGỌC MINH Ở NGÃ BA ÔNG TẠ vậy là tôi ngồi đong đưa thân mình sáu mươi mấy năm ròng rã trên hàng chén miệng mẻ cảđược sắp đặt hòng hứng vàng tôi ngồi đong đưa thân mình như thế cũng chỉ cốt sao cho tớikhải hoàn thì về về dẫu chuyến chót

  MỘT BÀI THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT ĐƯỢC CHO LÀ HAY?

 VĂN GIÁ   Chân dung Nhà phê bình Văn Giá Tôi bắt...

TÂM –/CẢM THỨC THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

   TÂM –/CẢM THỨC THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT ________________________________________ Biển Bắc   …...

TUẦN THƠ 25: ĐỊNH NGHĨA

THƠ KHẾ IÊM - ĐỊNH NGHĨA NGẮN NHÀ THƠ TÂN HÌNH THỨC Họ chừng như sống một đời sống bên ngoài bình thường nhưng bên trong luôn luôn bất bình thường chẳng phải vì vậy mà họ không ngừng phát hiện những điều mới lạ mới lạ bất bình thường nơi những sự vật bình thường thế giới hỗn loạn tranh chấp chiến tranh chẳng phải từ họ bởi họ mãi bận tâm tìm kiếm thực tại bên trong họ phản ánh từ thực tại bên ngoài họ không hẳn bình thường dù bên ngoài bình thường họ là những nhà thơ tân hình thức.

Interpersonal Theory of Poetry – T.S. Eliot

LÝ THUYẾT THI CA VỀ TÍNH CÁCH CÁ NHÂN Swastik...

Related Articles

TUẦN THƠ 13: NHỚ NÚI

Chúng ta đã có tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ: cái mới trong ý tưởng và cái hay trong nhịp điệu; cùng cách làm thơ Tân hình thức Việt, và bây giờ là thời điểm của vận động sáng tác. Thơ Tân hình thức Việt tái định nghĩa, thơ là một hành trình hồi phục người đọc, so với điện ảnh và ca nhạc, đó là tham vọng chẳng có gì phải thất vọng, vì đó là thơ. Nhưng để hồi phục người đọc, phải hồi phục nhịp điệu thơ, và để có nhiều người đọc, phải có nhiều người sáng tác. Chúng tôi mong muốn có những sáng tác mới, áp dụng theo cách làm thơ Tân hình thức Việt, và ngoài việc sáng tác, xin các thân hữu bỏ ít nhiệt tâm vận động thêm người tham gia. Sáng tác xin gửi về email: baogiaytanhinhthuc@yahoo.com & info@thotanhinhthucviet.vn

POETRY (phần 2)

Căn bản so sánh của Robinson cho thơ hiện đại là những thành đạt vĩ đại của Whitman, càng trở nên rõ ràng hơn nếu chúng ta để bài thơ “Oh for a poet – for a beacon bright” cạnh bài thơ “Walt Whitman,” của ông, bắt đầu với câu “Bài-hát-(của)-bậc-thầy đã chấm dứt” (The master-songs are ended) – chấm dứt với cái chết của Whitman.

The Study of Poetry

The Study of Poetry / Nghiên cứu Thi ca Bhaskar Banerjee| On February 08, 2008 Literary Criticism is, as Matthew Arnold (1822-1888), the Victorian poet and critic...