Tập Văn Ngày Mai – Nhóm Ngày Mai trong phong trào Hòa Bình tại Huế (1954)

LGT: Phong trào đô thị là một mũi giáp công chiến lược không thể tách rời trong cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược do Đảng lãnh đạo bắt đầu từ Hiệp định Genève ký kết (20 - 7 - 1954). Sẽ không có một cái nhìn đầy đủ và toàn diện lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 nếu không có một công trình nghiên cứu nghiêm túc về phong trào đấu tranh chống Mỹ tại các đô thị miền Nam nói chung, tại Huế – miền Trung nói riêng.

Chu Sơn | chusonth@gmail.com

Tập Văn Ngày Mai – Nhóm Ngày Mai trong phong trào Hòa Bình tại Huế (1954)
Lâu nay đọc giả vẫn chờ đợi những công trình nghiên cứu như thế, và sự chờ đợi đó cũng đã tới lúc sốt ruột. May mắn thay, đã có những người cất công nhiều năm nghiên cứu tìm hiểu để bước đầu dựng lại được những hình ảnh quý báu của phong trào đô thị Huế một thời vang vọng chưa xa. Một trong những người đó là nhà nghiên cứu Chu Sơn – cũng là người trong cuộc.

Sông Hương kỳ này gởi đến bạn đọc bài viết dưới đây, với mong muốn được như là khởi đầu cho việc lần lượt giới thiệu những bài viết của các tác giả đã từng là “người của phong trào”. Các nhà nghiên cứu lịch sử sẽ tìm thấy ở đây những tư liệu rất cần thiết cho công việc của mình. Các đọc giả thế hệ sau sẽ hình dung được phần nào vì nền độc lập của đất nước, các thế hệ đi trước đã sống và chiến đấu với một tinh thần đầy trí tuệ và bản lĩnh.


Bìa tập văn Ngày Mai tập 1, với hình chim bồ câu, do HS Phạm Đăng Trí thực hiện- Ảnh:TL

Ngày 24 tháng Hai năm 1955, tại Huế, giám đốc nha Thông tin Trung Việt Võ Thu Tịnh gởi công văn số 31/TT/NH lên Tổng trưởng bộ Thông tin và Tác chiến tinh thần đề nghị thu hồi giấy phép xuất bản tập văn Ngày Mai cùng những ấn phẩm khác thuộc phong trào Hoà Bình tại Thừa Thiên Huế.

 Công văn có nội dung và hình thức như sau:

Kính gởi ông Tổng -Trưởng Bộ Thông -Tin và Tác – Chiến Tinh – Thần ở

                                                                                                            SAIGON

V/v đề nghị tịch thu

sách phản tuyên-

        truyền

                                             Kính thưa ông Tổng – Trưởng;

                          Hiện thời tại Trung Việt đang được lưu hành một số tác phẩm văn nghệ, mới xem qua thì không ra mặt ca tụng Việt Minh, nhưng sự thật nhắm mục đích tuyên truyền cho họ bằng cách nêu cao quan điểm hoà bình của đối phương và thôi thúc giai cấp đấu tranh một cách khôn khéo trong những vần thơ hoặc câu văn xuyên tạc.

                          Để chận đứng lối tuyên truyền quỉ quyệt ấy, nha chúng tôi đề nghị lên Quí Bộ cấm lưu hành tất cả những loại sách nói trên. Và ngay bây giờ, chúng tôi xin đề nghị lên Quí Bộ tịch thu những sách sau nầy về loại ấy:

                               1/ Quyển “Hò vè đình-chiến Hoà-bình và lời tuyên ngôn chung của 9 nước đã tham-dự hội nghị “Giơ – Neo”, của Vân Sơn P.M.T biên soạn và do nhà in Bình-Minh xuất bản ( 9k đường Trần Hưng Đạo Huế. (Không có dấu đóng ngoặc, Chu Sơn)

                               2/  Quyển thơ “Tiếng nói của Dân-nghèo” của Vân Sơn P.M.T biên-soạn mà do nhà xuất-bản Gia-Long 20D, đường Gia-Long Huế ấn hành. (đường Gia Long nay là đường Trần Hưng Đạo, Chu Sơn).

                                 3/  Tập văn “Xuân Hoà-Bình” do nhà xuất-bản Tâm-Huệ số 1.C đường Nguyễn Hoàng (Huế) ấn hành.

                                                 Xin trân trọng kính chào Quí Tổng Trưởng./.

                                                     Nay kính trình

                                                     Ký tên: Võ Thu Tịnh.

Số 31/TT/NH/? Sao kính gởi:

–Uỷ Ban Đại – Biểu Chính – phủ tại Trung – Việt

                     “thẩm chiếu”

Huế ngày 24, tháng2 năm 1955.

Giám đốc Nha Thông tin Trung – Việt.

                        (Chữ ký và dấu tròn)

Hai trang trong “Ngày Mai” (tập 1) thể hiện lập trường Hòa Bình – Ảnh: TL

Theo ngày tháng năm ghi trên công văn và theo thời điểm xuất bản ghi trên tập văn Ngày Mai tập1, chúng ta thấy:

      — Chỉ 14 ngày sau khi hiệp định Genève ký kết, và 4 ngày sau khi hiệp định này có hiệu lực tại Thừa Thiên Huế, tập văn Ngày Mai đã ra mắt độc giả Cố Đô và sau đó trong các tỉnh thành ở miền Nam.

      — Đến thời điểm 24. 2. 1955 ( thời điểm ghi trên bản sao kính gởi Uỷ Ban Đại Biểu Chính Phủ tại Trung – Việt để tham chiếu), Ngày Mai đã xuất bản được 3 tập: tập 1 tháng 8 – 1954, tập 2 tháng 10 -1954, tập 3 tháng 12- 1954. Cả ba tập đều được Nha Thông Tin Trung – Việt kiểm duyệt và thông qua, không thấy có đục bỏ gì nhiều. Một chi tiết thú vị do cụ Nguyễn Hữu Đính kể lại: Cụ Hồ Đắc Định, (HĐĐ) người phụ trách trực tiếp khâu kiểm duyệt ở Nha Thông  Tin Trung – Việt, sau khi đọc Ngày Mai tập 3 (bản kiểm duyệt) đã viết thư cho toà soạn hoan hô Ngày Mai, và đặc biệt ngợi khen bài thơ Cô lái đò trên sông Bến Hải của Sơn Chi, cụ ( HĐĐ) đề nghị bỏ chữ “Ra” trong câu 35 (của bài thơ):

                                   Bắc Nam ai lỡ hẹn hò

                                   ( . ) sông Bến Hải lên đò em đưa…

Theo cụ (HĐĐ) chữ “Ra” ở đầu câu 8 nó “lộ liểu” quá.

Hãy cùng bay lên với khát vọng – Tranh của họa sĩ Bửu Chỉ

Như thế đến tập 3, Ngày Mai chưa trở thành vấn đề đối với Nha Thông Tin Trung – Việt, ngoại trừ thiện cảm của cụ Hồ Đắc Định.

Vấn đề trở nên trầm trọng bắt đầu từ tập 4 – Số Mùa Xuân – 1955. Ngày Mai tập 4 vẫn chưa bị tịch thu, chỉ bị kiểm duyệt đục bỏ từng chữ, từng câu, từng đoạn ngắn đoạn dài, từng một phần ba, một nửa, hai phần ba hoặc cả bài. Bài vè Tết năm Ất vị của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, bài thơ Bác nông thôn và nạn đói của Trụ Vũ chỉ còn là những trang giấy trắng đặc biệt ở mục quan điểm (trang 5 và 6) kiểm duyệt đục bỏ mấy câu ở phần đầu. Ở cuối bài, tên tác giả (gồm 5 chữ) cũng bị bôi xóa. Phải chăng tên tuổi của một nhân sĩ danh tiếng nào đó có lập trường Hòa Bình, Thống Nhất theo “sách lược của Cọng sản” còn nguy hiểm hơn cả nội dung chứa trong bài. Như thế đến thời điểm này công văn của nha Thông tin Trung việt chưa nhắm trực diện đến nhóm Ngày Mai, mà chỉ nhắm đến nhóm Tâm Huệ.

Bộ máy “Thông Tin và Tác Chiến Tinh Thần” của chế độ Diệm tại miền Nam vào thời điểm đó đã củng cố, tăng cường và hoạt động tích cực. Tuy vậy nó còn chậm và ít hung hăng hơn guồng máy công an, mật vụ rất nhiều.

Liền sau khi Ngày Mai tập 1 ra mắt độc giả, Võ Đình Cường, tác giả truyện ngắn tự sự “Viết để bảo vệ những Thằng Cu Tý”, Tôn Thất Dương Kỵ, người nòng cốt của nhóm Ngày Mai bị bọn sai nha trong trang phục lính “Quốc gia” đến nhà đập phá, hành hung trấn áp thô bạo “để cho câm cái miệng”.

Ngày Mai tập 2 cũng diễn ra tình trạng tương tự nhưng khốc liệt hơn. Bởi Võ Đình Cường “vẫn chưa câm cái miệng”, vẫn tiếp tục “Viết để bảo vệ những Thằng Cu Tý”, Tôn Thất Dương Kỵ và những bạn bè thân hữu cùng chí hướng với ông vẫn tiếp tục bước tới Ngày Mai, vẫn kiên định lập trường Hoà Bình, Thống Nhất đất nước và “thôi thúc đấu tranh giai cấp một cách khôn khéo”.

Sau tập 4, Ngày Mai bị đánh phá, tập 5 bị tịch thu hoàn toàn, giấy phép xuất bản bị rút, Võ Đình Cường, Tôn Thất Dương Kỵ, Cao Xuân Lữ bị xiềng chân, trói tay, khoá miệng ở nhà lao Thừa Phủ. Ba tháng sau họ được thả ra với lệnh trục xuất khỏi Thừa Thiên Huế. Các vị khác của nhóm Ngày Mai phải lùi một bước, nằm yên. Những cọng tác viên, cổ động viên nhiệt tình cũng đồng cảnh ngộ: Hoàng Nguyên chạy lên Đà Lạt, sau đó bị bắt đày Côn Đảo. Lê Quang Vịnh sau mấy tháng bị giam cầm, được thả ra, bị trục xuất và chỉ định cư trú tại Sài Gòn. Hoàng Anh Cung, Hoàng thị Châu, Lê Đình Phi… vượt tuyến ra miền Bắc. Họ không thuộc nhóm Ngày Mai. Họ là nòng cốt của nhóm học sinh kháng chiến Thừa Thiên Huế, cùng ở trong phong trào, mặt trận Hoà Bình của khu vực này.

Cuộc chiến tranh tiến hành từ một phía” của chính quyền Ngô Đình Diệm nhằm triệt phá cuộc đấu tranh chính trị, vận động Hoà Bình từ một phía khác âm ỉ từ những ngày đầu hiệp định Genève ký kết, phát động rầm rộ, khốc liệt từ tháng 7 – 1955 với những chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng tàn khốc, đẫm máu, hiểm độc mà mấy chục năm sau, một vài người còn sống sót nhớ lại vẫn kinh hoàng.

Bài viết này nhằm tiếp cận nhóm Ngày Mai, một nhóm trí thức Cách mạng. một bộ phận, một khâu của phong trào Hoà Bình tại một trong hai đô thị có vai trò trọng yếu (Sàigòn – Huế) trên mặt trận chính trị, văn hoá, tư tưởng mà không chỉ có ta, mà bọn xâm lược và chính quyền phụ thuộc Ngô Đình Diệm cũng xem là quan trọng hàng đầu trong cuộc chiến tranh mà Hiệp định Genève mới là điểm trung chuyển.

Về mặt văn bản tôi có đủ các tập Ngày Mai 1,2,3,4 do Hồ Tấn Phan –  một cổ động viên của Ngày Mai cho mượn. Về mặt tư liệu sống tôi tiếp xúc với những nhân vật mà tôi nghĩ là họ gần gũi với Ngày Mai hơn là nòng cốt của nhóm này (ông Lê Quang Vịnh đến 1954 đang học lớp đệ nhất (lớp 12 bây giờ) tại trường Quốc Học và thi đỗ tú tài toàn phần vào tháng 6 năm này, ông viết đều cho Ngày Mai, nhưng ông là nòng cốt của tổ chức Học sinh yêu nước Thừa Thiên Huế. Ông Hoàng Lanh, ông Phan Nam lúc bây giờ đã vào nội thị, đảm trách công tác khác chứ không chỉ đạo Ngày Mai…)

Hai trang trong “Ngày Mai” (tập 1) thể hiện lập trường Hòa Bình – Ảnh: TL

Tôi nghĩ người biết rõ Ngày Mai nhất thuộc hai thành phần sau đây:

     1/ Những cán bộ lãnh đạo cao nhất của Thừa Thiên Huế lúc bây giờ.

     2/ Những nòng cốt của nhóm nhân sĩ trí thức này.

Qua những thông tin tôi nhận được, những vị nòng cốt của nhóm Ngày Mai gồm các ông Tôn Thất Dương Kỵ, ông Lê Khắc Quyến, ông Nguyễn Hữu Đính, ông Tôn Thất Dương Tiềm, ông Phạm Đăng Trí, ông Nguyễn Hữu Ba…đều đã tạ thế. Còn lại hai vị là ông Võ Đình Cường và Cao Xuân Lữ. Ông Võ Đình Cường đang tại thế tại thành phố Hồ Chí Minh, ông Cao Xuân Lữ đang ở nước ngoài, cả hai vị đều tuổi cao sức yếu.

Về phía những người lãnh đạo chỉ đạo như các ông Tư Minh, ông Ngô Lén (Ngô Hà) đều đã qua đời, chỉ còn lại một người mà các ông Hoàng Lanh, Phan Nam, Lê Quang Vịnh đều giới thiệu cho tôi: ông Trần Hân.

Ông Trần Hân, tháng 7 – 1954, vào Huế làm bí thư Thị uỷ trực tiếp chỉ đạo phong trào Hoà Bình. Tháng 8 – 1955 ông bị địch bắt…, bị đày đi Côn Đảo, đến 1975 mới được giải phóng cùng với miền Nam.

Bay qua hòa bình – Tranh bút sắt của họa sĩ Bửu Chỉ

Nguyễn Hữu Châu Phan chở tôi đến nhà ông Trần Hân vào một buổi sáng đẹp trời sau Tết Dương lịch 2004. Con người dong dỏng cao, mảnh khảnh có cái nhìn dịu dàng chân thật tiếp chúng tôi với niềm vui của một người già cô quạnh có khách tới thăm. Tôi tự giới thiệu và giới thiệu Nguyễn Hữu Châu Phan với ông, đồng thời nói mục đích của cuộc “quấy rầy”. Ông bảo: “Tưởng ai chứ Châu Phan, con trai đầu của bác Đính thì không phải người xa lạ. Mấy ngày sau Hiệp định Genève ký kết, theo quyết định của thường vụ Tỉnh uỷ, mình vào Huế làm bí thư Thị uỷ. Việc đầu tiên là nắm các đầu mối của hệ thống tổ chức tại ba quận nội thành và 8 khu phố, các chi bộ, tổ chức đảng, ban cán sự các đoàn thể, các tổ chức kháng chiến trong công nhân, nông dân, lao động, tiểu thương, học sinh, nhân sĩ trí thức, tôn giáo… để qua đó mà đánh giá tình hình các mặt.

Ngày 4 tháng 8 (1954) các nhân sĩ trí thức họp tại nhà bác Đính để ra mắt Ngày Mai tập 1 và hoạch định nội dung cho Ngày Mai tâp 2. Mình vào nhà bác Đính lúc chạng vạng, nằm ở phòng Châu Phan hơn một tiếng đồng hồ để chờ buổi họp bắt đầu. Mình không chính thức tham dự mà ngồi nghe ở phòng ông cụ nội anh Phan. Khoảng hơn 10 giờ tối khi các thành viên mở rộng của Ngày Mai ra về, mình và các nòng cốt ngồi lại trao đổi trong vòng một tiếng. 11giờ tối mình ngồi sau xe mô tô của Cao Xuân Lữ về ngủ ở Gia Hội…”

Anh Châu Phan hơi ngỡ ngàng nhìn tôi, ông Trần Hân cũng quay về phía tôi và nói: Và Huệ nữa, lại là chuyện Hoà Bình. Tháng 4 hay tháng 5 gì đó năm sau (1955) mình về khu 3 Phú Lộc, ghé ở nhà Huệ một đêm. Nói là ở nhà Huệ chứ thực ra mình nằm trên cái miếu trong lùm sim lan phía sau nhà Huệ. Chỉ có cha mạ Huệ biết mình ở đó. Hơn một năm trước cha mạ Huệ  chuẩn bị cho mình một chỗ ẩn nấp trên cái miếu này để mỗi khi mình có dịp ghé lại. Lần ấy, về khu 3 mình có gởi cho Huệ bốn tập Ngày Mai, tập Vè Hoà Bình và tập thơ Tiếng Nói Dân Nghèo. Nghe nói Huệ sắp lên Huế học, mình muốn đầu tư một cơ sở giao liên lên về Huế và khu 3 Phú Lộc. Tiếc là mình và các anh không có duyên với nhau. Chỉ mấy tháng sau là mình bị bắt. Từ đó đến tháng 5 – 1975 mình là người tù khổ sai ở Côn Đảo. Chúng ta kẻ ở tù, người ở trong vùng tạm chiếm, người ở trên chiến khu, ở đâu chúng ta cũng bị bắt buộc ở trong tình trạng chiến tranh. Hoà Bình là một khao khát khi thì âm ỉ, khi thì cháy bỏng cấp thiết nơi mỗi chúng ta. Không thống nhất được đất nước trong hoà bình, thì chỉ còn một cách là chiến tranh thôi.

Ông Trần Hân dừng lại, dường như ông cảm thấy bối rối, dường như ông cảm thấy mình bày tỏ sự xúc động quá mức bình thường, dường như ông muốn lấy lại cái chừng mực, cẩn trọng trong lời nói cũng như trong cung cách. Ông nhìn chúng tôi như cố nắm bắt thật chính xác mục đích thực sự của cuộc viếng thăm, mà một mặt trong tiềm thức ông rất trông chờ, mặt khác, dù sao chúng tôi vẫn là “quần chúng” (ở ngoài Đảng).

    

Ông hỏi tôi: Huệ muốn gì? Anh nói là đã có 4 tập Ngày Mai, như thế chưa đủ sao?

Tôi nói: Thưa anh, tập văn Ngày Mai và nhóm Ngày Mai tuy một mà hai. Vả lại Ngày Mai là một bộ phận không thể tách rời của phong trào Hoà Bình do đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo trong thời điểm giao thời giữa hai cuộc chiến. Nói là hai cuộc chiến cũng chưa thật chính xác. Đứng trên bình diện dân tộc, thì chỉ là một cuộc chiến mà hai thời kỳ, với hai kẻ thù là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.

Ông Trần Hân bắt đầu tỏ ra thoải mái hơn. Ông cười to, xởi lởi nói với chúng tôi: “Như thế là hay rồi. Mình đề nghị với các anh là chúng ta sẽ trao đổi cởi mở thân tình, nghĩ thế nào nói thế đó. Nhưng ghi chép lại thì phải thật thận trọng. Bút sa nhà mất. Ghi chép thế nào đó cho có lợi, mình nói có lợi không phải cho mình, cho Châu Phan hay cho Huệ, mà cho đất nước, cho dân tộc. Bao giờ dân tộc cũng cần đoàn kết và sự thật phải là bài học hữu ích cho sự nghiệp chung ở phía trước. Nếu chỉ để thỏa mãn óc tò mò hoặc chỉ để tỏ ra này nọ thì chúng ta chẳng nên bỏ phí bất cứ một giờ phút nào. Có điều mình không thể nói gì ngay bây giờ đựoc. Ngày Mai và phong trào Hoà Bình đã là một phần của cuộc đời mình. Mấy tháng ở trại thẩm vấn và nhà lao Thừa Phủ, hai chục năm ở địa ngục Côn Đảo, ba chục năm sau ngày đất nước Độc Lập Thống Nhất hoàn toàn, người và việc của Ngày Mai, của phong trào Hoà Bình thời buổi ấy cứ quay đi trở lại trong tim óc mình. Tuy nhiên để giảm thiểu các sai trật không đáng có, mình đề nghị cho mình mượn bốn tập Ngày Mai để mình kiểm tra lại ký ức. Tuần sau vào giờ này mời hai anh trở lại…”

Quả tình hồi 1954 tôi có nhận được những tập sách như ông Hân đã nói. Hồi đó qua cha mạ tôi, tôi có biết một người tên là Dũng hay Hùng gì đó con trai ông xã Th bạn tâm giao của cha tôi. Người mà mỗi lần nhắc đến, cha mạ tôi đều tỏ lòng quí mến, cảm phục và nể trọng. Anh Dũng (hay Hùng) tham gia cách mạng từ thời 1939 – 1940 lúc mới 16, 17 tuổi. Anh trở thành cán bộ lãnh đạo của Thừa Thiên Huế lúc còn ở tuổi thanh niên. Cũng nghe nói anh là trưởng ty công an trước khi bị địch bắt. Mấy phút sau câu chuyện của ông Trần Hân, tôi mới biết người con trai ông xã Th đã từng gây cho tôi những ấn tuợng đẹp đẽ suốt cả tuổi thanh xuân với ông bí thư Thị uỷ Huế hồi 1954 là một. Chưa gặp mà đã biết, mới gặp lần đầu mà đã thân quen gần gũi – ấy là cảm nhận không những của riêng tôi mà chung cho rất nhiều những con người mà khổ nạn của đất nước đã xoá mờ những xa lạ, cách biệt trong cuộc sống đời thường, để nối kết lại với nhau. Cảm nhận quí báu và hạnh phúc này gần như hoàn toàn không tái hiện trong tôi từ khi đất nước độc lập thống nhất và xã hội chủ nghĩa.

Đúng một tuần sau, tôi một mình trở lại nhà ông Trần Hân và cuộc trò chuyện giữa chúng tôi đã diễn ra như thế này:

Tôi (Chu Sơn): Thưa anh, tập văn Ngày Mai chuẩn bị tự bao giờ mà chỉ mấy ngày sau hiệp định Genève ký kết đã xuất bản tập 1? Theo chỗ chúng tôi biết, từ khâu chuẩn bị nội dung, đến khâu kiểm duyệt, in ấn phải mất ít nhất vài ba tháng?

Ông Trần Hân (TH): Ngày Mai tập 1 do các anh Tư Minh, Ngô Lén chỉ đạo, mình chỉ biết đại khái, không biết các bước tiến hành cụ thể, nhưng chắc chắn là bắt đầu liền sau chiến thắng Điện Biên Phủ (7-5) và phái đoàn ta đến Balê (8-5). Pháp thua rồi, Hoà Bình nhất định phải đến thôi. Từ đầu tháng 5 (1954) không khí náo nức chờ đón hoà bình là một hiện thực tăng trưởng từng ngày không chỉ trên chiến khu mà cả nông thôn và thành thị. Nếu đọc kỹ, Huệ sẽ thấy Ngày Mai tập 1 phản ảnh tình trạng lúc đó. Không trực tiếp tham gia chỉ đạo tập 1, nhưng mình đọc rất kỹ, điều nghiên rất kỹ tập này để tham gia chỉ đạo các tập tiếp theo (cùng với các anh Tư Minh và Ngô Lén).

CS: Thưa anh có phải các vị lãnh đạo ở Tỉnh uỷ đã viết các bài quan điểm lập trường?

TH: Đâu có. Phương pháp chỉ đạo của Tỉnh uỷ là gợi ý đại cương đường lối, sách lược chứ không chen vào các công việc cụ thể. Huế là đất đai của các Mệ: tự tôn và văn chương chữ nghĩa đầy mình, viết lách đối với các giới nhân sĩ trí thức không chỉ là nhiệm vụ mà còn là nhu cầu. Mọi việc từ khâu chuẩn bị bài vở, vận động tài chính, in ấn, phát hành đều do các vị bàn bạc và thực hiện. Vả lại việc chỉ đạo không thể tràn lan, mà qua một vài cốt cán làm hạt nhân của nhóm và ban biên tập.

CS: Nghe nói có một chi bộ đảng hoạt động trong giới trí thức nhân sĩ Huế thời bây giờ?

TH: Mình cũng nghe nói giai đoạn anh Nguyễn Chí Thanh làm bí thư, trong Tỉnh uỷ có ý kiến đề xuất: nên tập họp các đảng viên được kết nạp trong những thời điểm và bối cảnh khác nhau trước đó vào một chi bộ cho tiện việc lãnh đạo, chỉ đạo. Chẳng hạn bác sĩ Thân Trọng Phước nguyên là đảng viên Tân Việt được kết nạp vào đảng Cọng Sản từ những năm đầu của thập niên 30. Chẳng hạn các giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, Tôn Thất Dương Tiềm đã là đảng viên từ khi còn ở Vân Dương, năm 1947 được đảng điều vào cư trú trong nội thị…Nguyên tắc tổ chức đảng: các đảng viên sinh hoạt đảng theo địa bàn cư trú hoặc khu vực ngành nghề. Từ sau 1947 đến 1951 tại 8 khu phố thuộc thị xã Huế có nơi có chi bộ, có nơi chưa. Bịnh viện Huế (nơi bác sĩ Thân Trọng Phước làm việc), trường Quốc Học (nơi giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ dạy học) chưa có chi bộ. Vậy bố trí các vị ấy sinh hoạt đảng ở đâu đây? Vả lại để bảo vệ thế hợp pháp cho các đảng viên có vị trí xã hội cao trong vùng tạm chiếm là vô cùng quan trọng  (một cán bộ đảng viên hoạt động hợp pháp quí báu hơn rất nhiều một cán bộ đảng viên hoạt động bí mật), nếu bố trí cho họ về sinh hoạt ở các chi bộ địa phương sẽ có nhiều nguy cơ bị lộ, họ bị đánh mất thế hợp pháp. Lại nữa theo điều lệ đảng : một đảng viên bất kể vì lí do gì đó không sinh hoạt đảng trong một thời gian nào đó (theo điều lệ qui định) sẽ không còn tư cách đảng viên nữa. Tình hình hoạt động cách mạng trong lòng địch rất nhiều trường hợp bị địch đánh phá ác liệt, chi bộ bị vỡ, cơ quan đầu não của đảng phải rút lên chiến khu, các đồng chí gốc là nhân sĩ, trí thức để giữ thế hợp pháp bó buộc tách rời tổ chức đảng một thời gian dài, do vậy mà sinh hoạt đảng bị gián đoạn, mất tư cách đảng viên.

Mình nghe nói đề xuất thành lập chi bộ trong giới nhân sĩ trí thức Huế có thỉnh thị ý kiến của Trung ương. Nhưng lúc bấy giờ trong Tỉnh uỷ, Kỳ uỷ và cả Trung ương nữa chưa có sự thồng nhất. Có đồng chí bảo đó là chi bộ xa lông, có đồng chí bảo đó là chi bộ bơ sữa. Do vậy có thể chi bộ đã được thành lập (khoảng 1949 do Hà Xuân Liêm –  cán bộ phụ trách trí thức –  làm bí thư) rồi bị giải thể sau đó, hoặc chi bộ “nhân sĩ trí thức” mới chỉ là một ban cán sự.

Lúc mình vào Huế, không thấy có đấu vết gì một “chi bộ” như thế cả. Thị uỷ lãnh đạo phong trào nhân sĩ trí thức yêu nước qua một ban cán sự gồm bác sĩ Thân Trọng Phước, các giáo sư Tôn Thât Dương Kỵ, Tôn thất Đương Tiềm, nhà văn Võ Đình Cường. Ban cán sự này là gạch nối giữa Tỉnh uỷ, Thị  uỷ với các cơ sở cốt cán như bác sĩ Lê Khắc Quyến, bác sĩ Hoàng Bá, Bác sĩ Phạm Bá Viên, nhân sĩ Bửu Đáp, kỷ sư Nguyễn Hữu Đính, nhân sĩ Vĩnh Tú, các nhà doanh nghiệp Lê Hữu Trí, Phan Thanh Tường (Thiên Tường), Nguyễn Ban, Nguyễn Văn Hải, Ngô Đề, Lê Bá Hàn, nhạc sĩ Nguyễn Hữu Ba, hoạ sĩ Phạm đăng Trí, nhà thơ Trụ Vũ, nhà giáo dạy tiếng anh Tôn Thất Hanh, nhà thơ Đoàn văn Long (Hồng Tâm), nhà báo Phạm Bá Nguyên và nhiều vị khác…

Vào thời điểm đó đảng chủ trương hạn chế phát triển đảng viên trong giới trí thức nhân sĩ để đảm bảo thế hợp pháp cho họ và đồng thời để họ chủ động phát huy năng lực và nhiệt tình kháng chiến trong vị trí và điều kiện xã hội của mình. Đặc biệt đảng còn chủ trương kết hợp rộng rãi các thành phần quần chúng chỉ trong mục tiêu giới hạn: cách mạng dân tộc, dân chủ, trước mắt là hoà bình và thống nhất đất nước.

CS: Không thấy anh nhắc đến ông Lê Quang Vịnh, nhạc sĩ Hoàng Nguyên?

TH: Mình chưa đề cập đến nhiều người chứ không chỉ hai anh Lê Quang Vịnh và Hoàng Nguyên.

Không chen vào công việc của Ngày Mai, nhưng nhiệm vụ của Tỉnh uỷ, Thị uỷ là phải biết đến nơi đến chốn các công việc và đặc biệt là từng thành phần nhân sự của Ngày Mai cụ thể. Tập văn Ngày Mai ở khía cạnh thông tin tuyên truyền là cơ quan ngôn luận hợp pháp của Cách mạng.

Từ tập 2 trở đi chúng ta thấy nhiều tên tuổi lớn xuất hiện. Đây là một chuyển biến, một thành tựu quan trọng. Cụ Ưng Bình Thúc Gịạ là một nhà quí tộc uy vọng ở Cố Đô đồng thời là một thi sĩ chủ soái một thi đàn (Hương Bình thi xã) nổi tiếng trong cả nước. Cụ Võ Liêm Sơn là một cựu giáo sư trường Quốc Học, rất có uy tín trong nhiều thế hệ học sinh và phụ huynh, đặc biệt cụ còn là nhà hoạt động cách mạng, một tác giả, đồng thời là một trong những viên đá tảng đầu tiên của đảng Tân Việt. Cụ Thảo Am Nguyễn Khoa Vi là một nhân sĩ và cũng là thi sĩ tài hoa có uy tín không nhỏ trong giới các đại gia và văn nghệ sĩ Huế. Trong thế hệ lão thành còn có cụ Tiểu Mai Thể Ngô Ngưyễn Huy Nhu. Thế hệ tiếp theo là các nhà hoạt động văn hoá, văn nghệ sĩ như nhà văn Tam Ích, đạo diễn Lê Dân, nhà văn Nguyễn Minh Trường, các nhà thơ Trụ Vũ, Vĩnh Thao, Ngũ Xa Thơ, Sơn Chi, các nhạc sĩ, hoạ sĩ, nhiếp ảnh gia Văn Giảng, Tôn Thất Đào, Đỗ Kim Bảng, Nguyễn Văn Hướng, Nguyễn Khoa Lợi và nhiều vị khác.

Trường hợp hai anh Lê Quang Vịnh, Hoàng Nguyên đã tham gia, cổ động cho tập văn Ngày Mai rất tích cực, nhưng về mặt cơ cấu họ là cốt cán của tổ chức Thanh niên – Học sinh Kháng chiến. Họ tham gia Ngày Mai cũng như các đảng viên Cọng sản được đảng đề xuất tiếp tay cùng mặt trận Việt Minh, mặt trận Liên Việt.

Cũng cần nhấn mạnh một điều là có rất nhiều, rất nhiều những con người không tên tuổi, không được các vị trong Ngày Mai biết đến, mà lại đóng góp cho Ngày Mai không nhỏ. Đó là những nhà doang nghiệp, những tiểu thương, những công chức đã ủng hộ kinh phí để thực hiện Ngày Mai. Đó là những học sinh, nông dân, lao động đã cổ động, tuyên truyền và lưu hành Ngày Mai. Ngày Mai còn được phát hành tại Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt và Sài Gòn. Ngày Mai được chuyển tay về tận nông thôn.

Đến Ngày Mai tập 3, anh Tư Minh rất vui phát biểu trước thường vụ Tỉnh uỷ: Huế các mệ, Huế trí thức, Huế văn nhân thi sĩ đã nghiêng về phía lập trường hoà bình và thống nhất đất nước.

Một chi tiết nữa chúng ta nên lưu ý là không phải tất cả các thành viên chủ chốt của Ngày Mai đều phô trương tên tuổi trên tập văn này. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kỷ sư Nguyễn Hữu Đính chẳng hạng. Đây là chủ trương, là phương pháp chỉ đạo của Tỉnh uỷ, Thị uỷ: không bao giờ bộc lộ hết các cán bộ nòng cốt. Thông thường trong các đợt phát động phong trào, bốn, năm mươi phần trăm các cán bộ, cơ sở nòng cốt đều được cất dấu để “thua keo này bày keo khác”. Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ, kỹ Sư Nguyễn Hữu Đính là hai trong số bốn năm cây viết trụ cột, nhưng trên bốn tập Ngày Mai, hai bác đã ký nhiều bút danh khác nhau trong những bài viết của mình. Bác Đính thì Việt Hà, Trường Đạo, Thanh Tuyền, PPP. Bác Kỵ thì Tiêu Viên, Mãn Khánh. Hoài Sơn NVH, XZX, NTV. Bác Dương Tiềm cũng là người biên tập chính của Ngày Mai, nhưng thường ký tên khác trong những bài có nội dung mạnh mẽ. Anh Lê Quang Vịnh viết đều cho Ngày Mai dưới những bút danh như Xuyên Sơn, Thiết Bút.

CS: Giáo sư Tôn Thất Dương Kỵ được dấu kỹ như vậy nhưng vì sao bị địch khủng bố từ đầu?

TH: Không phải những gì ta giữ bí mật đều không bị địch phát hiện. Bác Kỵ là người xông xáo, nổi tiếng là một giáo sư yêu nước trong học sinh trung học ở Huế. Nhà in Khánh Quỳnh in tập văn Ngày Mai là của vợ chồng bác. Vợ chồng bác còn phụ trách khâu phát hành. Tai mắt của địch bao quanh những người như thế.

CS: Nhóm  Ngày Mai và nhóm nhà xuất bản Tâm Huệ có quan hệ như thế nào?

TH: Không có quan hệ nào giữa nhóm Ngày Mai và nhóm Tâm Huệ.

Nhóm chủ trương nhà xuất bản Tâm Huệ cũng có lập trường dân tộc đấu tranh cho Hòa bình và Thống nhất đất nước theo hiệp định Genève. Tâm Huệ có lập trường chính trị thiên tả lộ liếu nên bị địch đánh phá trước nhóm Ngày Mai. Một trong những người nòng cốt của nhóm này là ông Tráng Đinh con trai của cụ Cường Để và là một nhân sĩ của Phật giáo Huế.

CS: Nội dung chỉ đạo và việc thực hiện Ngày Mai diễn ra như thế nào?

TH: Kêu đòi hoà bình, đấu tranh thực hiện hiệp định Genève là nội dung hàng đầu, tiềm ẩn lý tưởng Xã Hội Chủ Nghĩa là nội dung song hành.

Nhiệm vụ chính trị cấp bách là đấu tranh tái lập hoà bình (tập1), bảo vệ hoà bình, thực thi dân chủ, dân quyền tiến tới hiệp thương tổng tuyển cử, thống nhất đất nước  (tập 2,3,4…)

Chúng ta đang ở trong vùng tạm chiếm nên trọng tâm của mọi cuộc đấu tranh là nhắm vào Ngày Mai. Ngày mai nước nhà hoàn toàn độc lập và toàn vẹn lãnh thổ. Ngày mai toàn thể dân tộc sống trong hoà bình thịnh vượng công bằng bác ái theo lý tưởng Cộng sản. Nội dung của 4 tập Ngày Mai đều thể hiện khá đầy đủ quan điểm, đường lối sách lược của đảng Cọng sản vào giai đoạn đó.

Ngày Mai viết cho ai, viết như thế nào cũng là những vấn đề của chỉ đạo.

Độc giả của Ngày Mai là thanh thiếu niên, học sinh và đông đảo quần chúng lao động.

Thanh thiếu niên, học sinh là Ngày Mai của đất nước, dân tộc.

Quần chúng lao động là Ngày Mai của cách mạng Việt Nam và thế giới.

Bởi người viết và người đọc đang sống trong vùng do đối phương kiểm soát nên yêu cầu của chỉ đạo là: Ngày Mai thể hiện đúng đắn đầy đủ tư tưởng đường lối sách lược của đảng, bảo đảm tác động tích cực trong việc giác ngộ quần chúng, nuôi dưỡng và phát triển phong trào để khi thời cơ đến là đưa quần chúng vào cuộc đấu tranh: Không quá “tả” để tự bộc lộ mình, tạo cơ hội cho địch đánh phá, đánh mất thế hợp pháp. Không quá “hữu” để thủ tiêu nhận thức cách mạng và ý chí đấu tranh của quần chúng.

CS: Ở trên anh đã nói: tại hội nghị Genève Pháp đã chính thức công nhận độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam?

TH: Mình đã nói như thế. Điều đó không có nghĩa là nền độc lập, chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam đã là một hiện thực đầy đủ. Với thực dân Pháp: nói là một việc, làm lại là một việc khác. Trong quá trình xâm chiếm và đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã ký không ít những hiệp ước với triều đình nhà Nguyễn, với cái gọi là Chính Phủ Quốc Gia, kể cả những tạm ước đã ký với ta, chúng đều lật lọng.

Nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ VI và thư của Hồ Chủ Tịch đã chỉ cho chúng ta thấy rằng: Hiệp định Genève là chứng minh thư của những thắng lợi to lớn, nhưng chưa phải là thắng lợi cuối cùng. Cái giá của 9 năm kháng chiến với chiến thắng vang dội Điện Biên Phủ là một nửa đất nước (từ vĩ tuyến 17 trở ra) hoàn toàn giải phóng. Còn một nửa đất nước – miền Nam vẫn còn ở trong vòng vây của chủ nghĩa Tư bản. Và như thế, tất nhiên vẫn còn một cuộc giằng co quyết liệt giữa dân tộc và phi dân tộc trên phần lãnh thổ này của tổ quốc. Thực dân Pháp đã thua, đã công khai thừa nhận này nọ nhưng đồng thời chúng cũng mai phục một công cụ gọi là “Chính Phủ Quốc Gia” để bảo vệ quyền lợi của chúng.

Đế quốc Mỹ chia sẻ nỗi đắng cay thua trận của thực dân Pháp, cùng với thực dân Pháp rút lui trên một nửa lãnh thổ Việt Nam, nhưng với sức mạnh của một siêu cường hàng đầu thế giới có vũ khí nguyên tử và kinh tế giàu mạnh, chúng vẫn ngoan cố mưu đồ sử dụng chiêu bài “Quốc gia” và “ Thế giới Tự do” làm vũ khí ý thức hệ, sử dụng miền Nam làm tiền đồn của chủ nghĩa Tư Bản, hậu thuẩn mạnh mẽ cho tập đoàn các cứ Ngô Đình Diệm phủ định hiệp định Genève, biến lằn ranh quân sự tạm thời là vĩ tuyến 17 thành ranh giới lãnh thổ, chính trị, âm mưu chia cắt lâu dài đất nước dân tộc ta.

Từ đầu cuộc chiến tranh, chúng ta coi Pháp là kẻ thù chính, Mỹ là kẻ thù tiềm ẩn.

Đến thời điểm giữa cuộc chiến tranh, (1950) chúng ta coi Pháp – Mỹ là hai kẻ thù song hành.

Từ hiệp định Genève, chúng ta khẳng định Mỹ là kẻ thù trực tiêp số một.

Tuy nhiên trên tập văn Ngày Mai và trên các phương tiện truyền thông công khai, chúng ta chưa tấn công thẳng thừng trực diện vào đế quốc Mỹ và cộng cụ của chúng là cái gọi là “Chính Phủ Quốc Gia”. Đây là phương pháp cách mạng: Bởi Hoà Bình là mục tiêu, là sách lược của ta vào giai đoạn này.

Trên Ngày Mai tập 1, các tác giả dứt khoát bày tỏ lập trường dân tộc và chủ nghĩa Xã hội ở mức độ “hợp pháp”. Tranh bìa Chim Câu Hoà Bình của hoạ sĩ Phạm Đăng Trí, lập trường y tế của bác sĩ Lê Khắc Quyến, tự sự của nhà văn Võ Đình Cường, truyện ngắn của Vân Dương, của Cao Xuân Lữ, thơ của Hồng Tâm, Đoàn Văn Long, Ngũ Xa Thơ, nhạc của Nguyễn Văn Hướng, thơ và thơ dịch của Đỗ Phủ và Tiều Mai…là những tuyên ngôn, tuyên cáo kêu gọi hoà bình, phản đối chiến tranh quyết liệt của những trí thức văn nghệ sĩ trong vùng tạm chiếm. Đến truyện ngắn :Tiếng chim ca của Thiết Bút (Lê Quang Vịnh) và truyện dịch (Gương Thỏ Bạch) của Tôn Thất Hanh thì sự chọn lựa thế đứng trong cuộc chiến tranh vệ quốc đã khá rõ ràng. Chưa gọi đích danh, nhưng Thiết Bút đã chấm phá tên tuổi kẻ thù mới của dân tộc: Mỹ.

Những kiến giải dễ hiểu và tiến bộ về Tự Do, về sử quan, về thế đứng và cảm xúc văn học của tác giả Việt Hà ( Nguyễn Hữu Đính) Tiêu Văn, Mãn Khánh (Tôn Thất Dương Kỵ), DT (Dương Tiềm) chưa đủ mạnh để gây “sốc” cho đối phương nhưng vừa đủ liều lượng để hướng dẫn và phát triển nhận thức tích cực cho giới trẻ và đông đảo quần chúng.

Từ tập 2, trở đi, Ngày Mai tập chú vào các chủ đề bảo vệ Hoà Bình, đấu tranh thi hành hiệp định Genève, đấu tranh thực hiện các quyền tự do dân chủ, kêu đòi dân sinh,dân chủ,  kêu đòi hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước, và tiếp tục gợi mở nâng cao nhận thức mới Xã Hội Chủ Nghĩa.

Tuyên bố chung của 9 nước tham dự hội nghị Genève được in nguyên văn ở cuối tập 2.

Với chủ đề Hoà bình, Thống nhất, ngoài những cây bút quen thuộc trên các tập 1,2, bắt đầu từ tập 3… đông đảo bạn đọc Ngày Mai hoan hỷ chào đón những thơ văn, hò vè, nhạc, những kiến giải tiến bộ về văn hoá, văn nghệ, điện ảnh, mỹ thuật của những tác giả thuộc tầng lớp trên và thế hệ lão thành như Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, Võ Liêm Sơn, thế hệ trung niên như Nguyễn Hữu Ba, Tam Ích, Lê Dân, Sơn Chi, thế hệ trẻ như Hoàng Nguyên, Trụ Vũ.

Ngoài các tác động văn hoá văn nghệ, sự xuất hiện những tên tuổi lớn trong nhiều khía cạnh đời sống xã hội miền Trung – Huế đã chứng thực rằng Ngày Mai đã tạo đựoc niềm tin, thế đứng sâu rộng trong nhiều bộ phận quần chúng ở Cố Đô, ở các hưyện của Thừa Thiên , Quảng Trị, cả ở Đà Nẵng, Sài Gòn.

Tác giả Cao xuân Lữ trong bài Thời đại nguyên tử – Ngày Mai tập 2, đã khéo léo dẫn dắt bạn đọc từ những hiểu biết phổ thông về nguyên tử lực đến hiểm hoạ chiến tranh nguyên từ phía Mỹ.

Các tác giả: Thanh Tuyền trong bài Chiến tranh và sự thịnh vượng kinh tế (Ngày Mai tập 3), P.P.P trong bài Cách lựa chọn nhân tài (Ngày Mai tập 3) đã mô tả bằng những biểu đồ, những con số thống kê sự lệ thuộc của chính quyền Mỹ vào các tập đoàn Tư Bản cá mập, sự bóc lột sức lao động và sự làm giàu của nước Mỹ tư bản nhờ các cuộc chiến tranh.

Trên Ngày Mai tập 3 một số vấn đề kinh tế, xã hội ở địa phương như cấp cứu họa nước mặn, cứu đói, các lớp bình dân học vụ được các tác giả Sơn Hải, Đặng Cao Viễn phản ảnh một số hoạt động của phong trào Hoà Bình trong cuộc vận động nhiều mặt, nhiều lĩnh vực ở Thừa Thiên Huế thời điểm một năm sau hiệp định Genève (7- 1954 – 1955).

Đến Ngày Mai tập 4 (phát hành tháng 3 – 1955), tập 5 (chuẩn bị phát hành tháng 5 – 1955, bị tịch thu toàn bộ) nội dung chủ yếu đẩy mạnh cao trào Hoà bình dự kiến phát động sau 20 tháng 7 – 1955.

Tập 4, Xuân Hoà Bình bị kiểm duyệt đi kiểm duyệt lại đến ba lần (lần đầu 7-10 – 1954, lần hai 3 – 12. 1954, lần ba 1- 3- 1954). Ở tập này có ba chi tiết cần chú ý: thứ nhất tên tác giả ở bài quan điểm: Xuân Hòa Bình (trang 5) bị kiểm duyệt. Thơ Ưng Bình Thúc Giạ Thị, thơ Trụ Vũ bị kiểm duyệt nguyên bài; thứ hai, ban biên tập Ngày Mai được bổ sung thêm bốn cọng tác viên mới: Nam Quan, T. Hậu, H Nam, Liên Cầm; thứ ba, lập trường hoà bình thống nhất đất nước của các cọng tác viên càng đến sau (với Ngày Mai) càng mạnh mẽ. Những chi tiết này chứng minh rằng Ngày Mai khi đã được quần chúng các giới đồng tình, và lập trường Hoà bình Thống nhất đất nước theo tinh thần của hiệp định Genève đã trở thành nhu cầu khẩn thiết của đông đảo nhân dân.

Tuy nhiên đối với nhà cầm quyền Ngô Đình Diệm thì hoà bình, thống nhất là điều cấm kỵ. Ai nói chuyện hoà bình, ai vận động thống nhất người đó cần bị tiêu diệt. Luận điểm của chúng là hiệp định Genève và sự chia đôi đất nước là cấu kết giữa thực dân và Cộng sản. Chính phủ Quốc Gia không ký hiệp định Genève nên không có trách nhiệm thi hành. Ngày 20 tháng 7 là ngày quốc hận.

CS: Đề nghị anh khái quát tầm vóc và sự diễn tiến phong trào Hoà Bình.

TH: Đương đầu với thực dân Pháp gần 9 năm và đánh thắng chúng tại Điện Biên Phủ và nhiều chiến trường khác trên toàn cõi Đông Dương là một nổ lực vô cùng to lớn của quân và dân ta. Tuy nhiên vừa đánh Pháp, vào giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh, vừa quan ngại Mỹ nhảy vào lại là một thực tế khác. Do vậy Hoà Bình là mặt trận thứ hai có lúc song hành với chiến tranh, có lúc đẩy mạnh lên hàng đầu. Vào thời điểm đầu năm 1953 đến khi kết thúc Điện Biên Phủ thắng lợi, mặc dù trên chiến trường càng lúc ta càng nắm phần chủ động và ưu thế, nhưng so sánh lực lượng giữa ta (Việt Nam với sự giúp đỡ của Liên Xô, Trung Quốc) và đối phương ( thực dân Pháp và đồng minh Mỹ, Anh) không cho phép ta đẩy mạnh cuộc chiến tranh đến thắng lợi cuối cùng. Mỹ lăm le nhảy vào thay thế hoặc phối hợp với Pháp, đe doạ ném bom nguyên tử.

Đầu năm 1954 quân và dân Thừa Thiên Huế – Quảng Trị một mặt chi viện cho chiến trường lớn Điện Biên Phủ, tấn công tiêu diệt đồn bót, thu nhỏ vùng chiếm đóng của đối phương, một mặt phát động phong trào chống chiến tranh (chống bắt lính, vận động lính Nguỵ bỏ ngũ) vận động hoà bình trong Nguỵ quân Nguỵ quyền và các tầng lớp nhân dân vùng tạm chiếm.

Đến khi hiệp định Genève ký kết, chính quyền và quân đội kháng chiến tập kết ra miền Bắc. Một số đảng viên, cán bộ, cơ sở được lệnh ở lại cùng đồng bào đấu tranh bảo vệ hoà bình, thực thi hiệp định Genève, tiến tới hiệp thương thống nhất tổ quốc. Trong niềm phấn khích hân hoan của các tầng lớp nhân dân trước thắng lợi vang dội Điện Biên Phủ và triển vọng về một đất nước thanh bình ấm no hạnh phúc, lợi dụng yếu tố pháp lý của hiệp định Genève, Tỉnh uỷ, Thị uỷ đã gấp rút ổn định, kiện toàn và phát triển cơ cấu bí mật của đảng, hình thành các tổ chức ở nội thành, vùng ven và các huyện đến đơn vị khu phố, phường xã, thôn ấp, nhà máy (nhà máy vôi Long Thọ, nhà máy đèn (điện), nhà máy nước), nhà thương, trường học, chợ (đứng đầu là chợ Đông Ba), bến xe, bến đò, xây dựng các địa bàn lõm, các gia đình cơ sở, đào nhiều hầm bí mật, thiết kế nhiều chỗ ở bí mật nuôi dưỡng, bảo vệ cán bộ, tổ chức mạng lưới đường dây, phương tiện giao thông liên lạc, đào tạo, huấn luyện nhiều giao liên thành một thế trận liên hoàn giữa chiến khu, nông thôn, thành thị và ngược lại.

Tỉnh uỷ, Thị uỷ gấp rút cải tiến, hình thành thêm các tổ chức quần chúng yêu nước, đổi mới nội dung, phương pháp hoạt động cách mạng nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị giai đoạn mới.

Cấu trúc phong trào Hoà Bình theo dạng tầng và vòng.

Có ba tầng từ dưới lên:

      — Tầng nền móng là công nhân lao động, nông dân và dân nghèo thành thị.

      — Tầng giữa là tiểu thương, thanh niên học sinh, thầy giáo và cả viên chức, lính tráng tiến bộ trong Nguỵ quân Nguỵ quyền.

      — Tầng trên là nhân sĩ trí thức văn nghệ sĩ và những chức sắc tôn giáo (chủ yếu là Phật giáo).

Có ba vòng từ ngoài vào:

      — Vòng ngoài là khu vực nông thôn các huyện.

      — Vòng giữa là vùng ven.

      — Vòng trong là các khu phố thuộc ba quận nội thành.

Tỉnh uỷ, Thị uỷ chỉ đạo, phối hợp, điều hành phong trào sao cho nhịp nhàng, sát khớp, đồng bộ và kịp thời giữa các tầng các vòng. Để có một cuộc biểu tình hai ba vạn người diễn ra ở Huế vào một thời điểm cụ thể nào đó, Tỉnh, Thị và các huyện phải thống nhất kế hoạch từ tổng thể đến chi tiết để đưa ít nhât hai phần ba số người tham dự từ vùng ven và các huyện vào. Do vậy mà các khâu chuẩn bị kế hoạch, tổ chức, phối hợp và điều hành không phải là một vấn đề đơn giản, bởi tất cả đều diễn ra trong vòng kiềm toả của tai mắt đối phương.

Chiến tranh Việt – Pháp chấm dứt, hoà bình đã lập lại nhưng độc lập dân tộc và thống nhất tổ quốc mới chỉ là một nửa con đường. Nửa con đường còn lại có thể là hai năm – theo hiệp định Genève –  hoặc có thể là một cuộc chiến tranh tàn khốc và đau thương gấp bội, bởi như bác Hồ và Đảng nhận định:kẻ thù mới –  đế quốc Mỹ – giàu mạnh và nguy hiểm hơn kẻ thù cũ –   thực dân Pháp –   rất nhiều lần và tính chất của cuộc chiến sẽ phức tạp khó khăn khôn lường, bởi cái công cụ “chính phủ Quốc gia” trong tay thực dân Pháp đang từng bước trở thành một hiện thực trước một bộ phận quần chúng nhân dân. Trong chừng mực nào đó: trong lòng cuộc chiến tranh chống xâm lược còn có cả một cuộc nội chiến.

Năm mươi phần trăm niềm tin thắng lợi của cán bộ đảng viên tụi mình dành cho giải pháp Hoà Bình, nhưng toàn bộ sức lực trí não của anh em đồng chí từ lãnh đạo các cấp đến cơ sở đều đỗ hết cho cuộc đấu tranh mới. Các anh Tư Minh, Ngô Lén mỗi lần gặp gỡ thuộc cấp dều nhắc nhở: “Cho dù tụi mình phải hy sinh mạng sống thì cái giá của Hoà Bình cũng rẻ hơn chiến tranh gấp ngàn vạn lần”.

Hoà Bình là phong trào chung của cả miền Nam, nhưng chủ yếu tập trung vào hai trọng điểm là Huế và Sàigòn.

Sàigòn là một thành phố lớn bao quanh bởi một vùng nông thôn rộng lớn và giàu có. Sài gòn còn là cửa ngỏ thông ra thế giới bên ngoài. Phong trào Hoà Bình của các nhân vật thuộc tầng lớp trên gây tiếng vang lớn nhưng chóng tàn. Để nuôi dưỡng cuộc đấu tranh, phong trào phải chuyển động về phía quần chúng lao động ở cơ sở.

Huế trái lại là một thành phố nhỏ, vành đai nông thôn hẹp và nghèo, là đất của rất nhiều truyền thống cực đoan, là cái nôi của các thế lực phản động và lạc hậu, là cái loa phản tuyên truyền hướng ra miền Bắc, là gốc rễ của hai nhân vật chóp bu của cái gọi là “Chính Phủ Quốc Gia”: Bảo Đại và Ngô Đình Diệm do thực dân đế quốc nhào nặn và đặt để. Đấu tranh và vận động hoà bình tại Thừa Thiên Huế cũng là đấu tranh vận động hoà bình trong ruột thịt họ hàng thân thích và vây cánh của hai nhân vật ấy. Vấn đề trở nên cực kỳ khó khăn và tế nhị. Phải trái rạch ròi, đúng sai dứt khoát, trắng đen sáng tỏ nhưng yêu cầu nghiêm ngặt là “lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau”. Hoà bình trên nền tảng độc lập dân tộc không có nghĩa là huề cả làng, là “cá mè một lứa”, nhưng nhất thiết là phải làm hết sức để chuyển đổi càng nhiều càng tốt, càng quí, càng hay, càng có lợi: tình cảm, nhận thức và hành động cụ thể thiết thực của đông đảo quần chúng về phía lập trường hoà bình, hiệp thương thống nhất để bầu ra một chính quyền duy nhất cho một Việt Nam độc lập và toàn vẹn lãnh thổ thông qua một cuộc bầu cử dân chủ và tự do. Bởi tất cả những đảng viên và cán bộ như chúng mình trong bất cứ mọi tình huống cho dù khắc nghiệt đến đâu cũng khắc ghi một điều Bác Hồ đã nhắc nhở: “ Tất cả mọi người Việt Nam ai cũng có lòng yêu nước”, phải kiên trì đấu tranh thay đổi họ.

Phong trào Hoà Bình không chỉ bắt đầu vào tháng 7 – 1954, trước đó nhiều tháng nhiều ngày, cụ thể là từ sau chiến thắng Điện Biên Phủ, một số hoạt động đã được chuẩn bị: nhiều tiết mục, nhiều chương trình biểu diễn của đoàn văn nghệ Chim Xanh của tỉnh đã được sắm sửa để tiếp cận thành phố. Ngày Mai đã lo xong nội dung tập1. Nhà in Khánh Quỳnh được bổ sung thêm thợ, mua sắm các thiết bị cần thiết và giấy mực. Các tổ đảng, các ban cán sự nòng cốt trong công nhân, nông dân, tiểu thương, học sinh, nhân sĩ trí thức văn nghệ sĩ được cũng cố tăng cường, các đầu mối trong Nguỵ quân, Nguỵ quyền cũng ráo riết vào cuộc.

Đầu tháng 8 (1954) cùng với Ngày Mai tập 1, ba vạn bản văn Hiệp định Genève và Vè Hoà Bình đã in xong, phát hành, phân phối, chuyền tay rộng rãi trong nhiều địa phương ngoài Huế và các giới quần chúng từ nội thành, vùng ven đến nông thôn. Cán bộ, cơ sở cốt cán (phát triển nhanh chóng sau chiến thắng Điện Biên Phủ) được tung đi nhiều nơi để giải thích nội dung cơ bản của hiệp định Gênève, đặc biệt là điều 14 khoản C của hiệp định về việc bảo đảm các quyền tự do dân chủ cho người dân, và điều 7 (tuyên bố chung kết thúc hội nghị) về thời hạn và phương thức tiến hành hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất đất nước.

Đoàn văn nghệ Chim Xanh từ chiến khu tiếp cận thành phố biểu diễn phục vụ nhân dân tại An Cựu, Vĩ Dạ, các xã thuộc huyện Phú Vang, Hương Thuỷ, Hương Trà. Thanh niên nam nữ học sinh, nghệ nhân ở các huyện cũng tổ chức những đêm ca hát, hò vè, diễn tuồng, diễn kịch. Cơ sở cốt cán tại các trường (gồm thầy giáo và học sinh) rủ nhau đi cắm trại, du ngoạn dã ngoại, tổ chức liên hoan. Nhiều người từ thành phố hoặc từ nông thôn ra vào thăm viếng bà con họ hàng bạn bè thân thuộc, giúp đỡ nhau hàn gắn vết thương chiến tranh, trùng tu mồ mã nhà thờ, tham gia cúng giỗ, kỵ chạp. Tất cả hoạt động ấy đều nằm trong chủ trương của phong trào Hoà Bình nhằm mục đích phục hồi sinh khí, cũng cố mối quan hệ thân tình, phát triển nhận thức và ý chí làm chủ trong công cuộc bảo vệ hoà bình, kêu gọi nhà cầm quyền thi hành Hiệp định Genève tiến tới hiệp thương thống nhất đất nước, kêu gọi nhà cầm quyền quan tâm giải quyết các vấn đề nhân sinh như cứu đói, đắp đập Thuận An ngăn mặn, đấu tranh nhằm ngăn chận các hành vi trả thù những cá nhân, gia đình đã tham gia kháng chiến chống Pháp, đấu tranh đòi nhà cầm quyền tôn trọng, thực thi các quyền tự do dân chủ của nhân dân. Hai công tác đặc biệt có tác động rất tích cực trong giai đoạn này là binh vận và bình dân học vụ.

Rất nhiều binh lính trong Nguỵ quân đã hưởng ứng lời kêu gọi, khuyên nhủ của vợ con, cha mẹ, anh em, họ hàng và bạn bè rời bỏ hàng ngũ, đơn vị đồn bót trở về với đời sống dân thường, thậm chí có người đã tình nguyện đi tập kết. Kết quả của công tác binh vận rất to lớn. Nhiều đồn bót của các làng xã thuộc các huyện bỏ trống. Ở Huế các đồn Nam Giao, Tây Thượng, An Cựu, Phát Lát trở nên hoang tàn. Những bài ca dao, hò vè và thơ của Ưng Bình Thúc Giạ Thị, Thảo Am Nguyễn Khoa Vi, Văn Đường, T.Hậu. H.Nam in trên các tập Ngày Mai 3, 4 đều phản ảnh sinh động niềm hân hoan, khí thế Hoà Bình trong bối cảnh của Thừa Thiên Huế những tháng sau Genève.

Bình dân học vụ nổi lên thành một phong trào và phát triển rộng rãi sôi nổi là một bộ phận khác của phong trào Hoà Bình. Ông Bửu Đáp – một  nhân vật có vai vế trong hoàng tộc, một hưu quan có uy tín trong cựu trào, ông Tôn Thất Lôi, một thầy giáo trẻ đồng thời cũng là một thanh viên của dòng họ Nguyễn Phước đã đảm trách vai trò trưởng, phó ban bình dân học vụ. Các lớp tối mọc lên ở nhiều nơi trong thành phố. Nhiều giáo viên, trí thức, thanh niên có học vấn tình nguyện về các làng xã vùng ven, vùng xa thuộc các huyện đốt đèn dạy chữ, truyền bá văn hoá và nếp sống mới. Ban bình dân học vụ ngoài nhiệm vụ xoá mù, còn là hệ thống măc xích, là trạm liên lạc hai chiều nông thôn – thành thị (trong – ngoài) của phong trào Hoà Bình. Đặng Cao Viễn trong Ngày Mai tập 3 mô tả một lớp bình dân học vụ. Đó là một lớp trong hàng trăm lớp, một mắc xích trong hàng trăm mắc xích nửa bí mật, nửa công khai hợp pháp giữa lòng sào huyệt của đối phương.

Những ngày đầu năm 1955 thật là khẩn trương đối với Tỉnh, Thị uỷ và cán bộ đảng viên, cơ sở các cấp. Thời điểm thách đấu giữa Cuộc chiến tranh tiến hành từ một phía (chính quyền Ngô Đình Diệm) và công cuộc vận động Hoà Bình từ một phía khác (ta) đã bắt đầu căng thẳng. Hệ thống cai trị của thực dân Pháp từng bước rút lui theo các điều khoản của hiệp định Genève kéo theo sự sa sút, thua chạy của phe “Quốc Gia Bảo Đại”. “Phe Quốc Gia Ngô Đình Diệm” với sự hà hơi tiếp sức của đế quốc Mỹ lần hồi nắm độc quyền thống trị miền Nam. Giữa năm 1955 chúng tập trung các mũi nhọn sức mạnh quay về phía ta:

Một mặt, bọn công an mật vụ lùng sục khắp nơi bắt bớ, tra tấn, tù đày, bắn giết các cán bộ đảng viên hoạt động bí mật; trấn áp, uy hiếp, đe doạ, mua chuộc, tống xuất các cơ sở và quần chúng cách mạng.

Một mặt với phương tiện dồi dào do thực dân Pháp để lại và do đế quốc Mỹ trang bị mới, với sự tiếp tay cuồng nhiệt của một số cựu kháng chiến phản bội trở cờ, bộ máy Thông Tin và Tác Chiến Tinh Thần của tập đoàn Ngô đình Diệm phát động cuộc chiến tranh ý thức hệ. Chúng hò reo một cuộc thánh chiến:

          — Lấy học thuyết Cần lao Nhân vị hữu thần chống lại chủ nghĩa Cộng sản vô thần.

          — Lấy đảng Cần lao Thiên chúa giáo chống lại đảng Cộng sản.

          — Lấy “nước miền Nam Quốc Gia” chống lại “nước miền Bắc Quốc Tế”.

Chúng phủ nhận Hiệp định Genève, bát khước hiệp thương tổng tuyển cử thống nhất tổ quốc với luận điệu: Hiệp định là sự cấu kết giữa thực dân Pháp và Hà Nội. Chính phủ Quốc Gia không ký vào hiệp định nên không có trách nhiệm thi hành. Ngày 20 tháng 7 – 1954 là ngày quốc hận. Chúng hô hào lấp sông Bến Hải – Bắc tiến.

Để đương đầu với sách lược, thủ đoạn và các biện pháp gian ác của chính quyền Ngô Đình Diệm, cùng với các tỉnh, thành toàn miền Nam, chúng ta vẫn kiên trì đường lối Hoà Bình, chỉ với đấu tranh chính trị và sức mạnh quần chúng đương cự với bạo lực phản động ngày một gia tăng cường độ và tầm vóc, luận điệu của chúng:

           — Ai nói chuyện hoà bình, bảo vệ hoà bình là Cộng sản.

           — Ai kêu gọi hiệp thương, tổng tuyển cử thống nhất là Cộng sản.

           — Ai đấu tranh kêu đòi dân chủ, dân sinh là Cộng sản.

           — Cộng sản với Quốc gia không đội trời chung. Người Quốc gia cần phải tiêu diệt Cộng sản đến tên cuối cùng.

Luận điệu đó gắn liền với những hành động tàn ác, dã man của chính quyền Diệm đặt cán bộ đảng viên, phong trào Hoà Bình và quần chúng yêu nước trước một tình thế cực kỳ nguy hiểm. Phong trào bị đàn áp khắp nơi. Các nhân vật thuộc tầng lớp trên của phong trào Hoà Bình Sàigòn, Chợ Lớn bị bắt giam, đưa ra toà, bị vu khống nhục mạ, bị khống chế và chỉ định cư trú.

Tại Thừa Thiên Huế: Võ đình Cường, Tôn Thất Dương Kỵ, Lê Quang Vịnh, Cao Xuân Lữ suốt nhiều tháng liền sau khi Ngày Mai tập 1 xuất bản đã bị trấn áp, đến Ngày Mai tập 3 thì bị bắt giam, vào đầu tháng 5-1955 bị tống xuất ra khỏi Thừa Thiên Huế. Hàng trăm cuộc tập họp, đấu tranh với nhiều hình thức, tầm vóc vừa và nhỏ tại các quận huyện phường xã đều bị vô hiệu hoá, nhiều cán bộ của phong trào Hoà Bình cùng chung số phận,

Tranh lích sử – sách giáo khoa lớp 12

Trước tình hình đó, Tỉnh, Thị uỷ quyết định phát động những cuộc đấu tranh với qui mô lớn:

Nhân ngày Quốc tế Lao động 1. 5. (1955) một cuộc mitting lớn với khoảng ba vạn người tham dự diễn ra tại quãng trường Phu Văn Lâu. Để có cuộc mitting này, phong trào Hoà Bình với sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng từ tỉnh, thị, các huyện, đến các chi bộ đã điều động quần chúng nội ngoại thành, nông thôn kể cả nông thôn vùng xa như khu 3 Phú Lộc, Phong Điền, Quảng Điền. Tại diễn đàn cuộc mitting, các đại diện của thành phố và các huyện đã khẳng quyết lập trường bảo vệ Hoà Bình, kêu gọi nhà cầm quyền miền Nam hiệp thương với miền Bắc để tổ chức tổng tuyển cử thống nhất đất nước, đồng thời cũng kêu gọi nhà cầm quyền tôn trọng và thực thi quyền tự do dân chủ, chống đàn áp, bắt bớ giam cầm người vô tội, giải quyết cấp bách các nhu cầu dân sinh như cứu đói, đắp đập Thuận An ngăn mặn.

Trong tháng 5, tháng 6 và nửa đầu tháng 7 nhiều đơn khiếu tố, thỉnh nguyện của đại diện các tầng lớp nhân dân thành phố và các huyện đã được nhân sĩ trí thức (người của phong trào Hoà Bình chưa bị lộ) hướng dẫn trao tận tay các cấp chính quyền Thừa Thiên Huế.

Một cuộc mitting lớn khác dự kiến tổ chức vào ngày 28. 8. 1955. Trong lúc tỉnh, thị và các huyện đang gấp rút chuẩn bị kế hoạch và các biện pháp tiến hành, thì ngày 25. 8. 1955 mình (Trần Hân) và mấy đồng chí khác bị địch bắt. Tuy vậy mitting vẫn diễn ra đúng ngày giờ đã định. Trên ba vạn người, vào lúc gần trưa (11giờ) ngày 28, bằng nhiều phương tiện khác nhau: đò, nốt, xuồng lớn xuồng nhỏ, xe đò, đi bộ…từ Phú Lộc, Phú Vang, Hương Thuỷ lên, từ Phong điền, Quảng Điền, Hương Trà vào cùng đồng bào 8 khu phố thuộc ba quận nội thị và các cơ quan Nguỵ quyền đến giờ bãi sở đã tề tựu trước chợ Đông Ba trên đoạn đường Trần Hưng Đạo từ cầu Gia Hội đến múi cầu Trường Tiền làm mitting. Nội dung cuộc mitting này cũng như cuộc mitting 1 tháng 5 nhưng quyết liệt hơn nhiều. Chính quyền Diệm đã điều động công an, cảnh sát, mật vụ và cả lính tráng đàn áp bạo tàn. Hàng trăm người bị đánh đập thương tích. Cuộc mitting bị chia cắt thành nhiều nhóm nhỏ. Các nhóm nhanh chóng phát triển thành những cuộc biểu tình tuần hành qua nhiều ngã khác nhau trên một số đường phố, vừa đi vừa hô vang khẩu hiệu: Đã đảo độc tài. Đã đảo đàn áp phát xít. Hoà Bình muôn năm. Việt Nam độc lập thống nhất muôn năm…

Sau cuộc mitting của nhân dân Thừa Thiên –  Huế ngày 28. 8, Ngô Đình Diệm tức tốc từ Sàigòn bay ra Huế họp khẩn cấp với đàn em và thuộc hạ ở địa phương (Ngô Đình Cẩn, em út của gia đình họ Ngô được phân chia làm lãnh chúa ở miền Trung), chúng đề ra hai biện pháp:

      1/ Nhanh chóng đắp đập Thuận An, giải quyết trước mắt và tạm bợ các vấn đề nhân sinh.

      2/ Đẩy mạnh chiến dịch tố Cộng, diệt Cộng mà chúng đã phát động rầm rộ từ 20 tháng 7 – thời điểm mà chúng gọi là  ngày quốc hận.

Cuộc chiến tranh tiến hành từ một phía phát triển theo một qui mô lớn chưa từng thấy với tính chất đẫm máu và vô cùng thâm độc, phản động.

Chúng mở rộng hệ thống nhà tù, trại cải huấn, chúng xây dựng mới các trung tâm thẩm vấn từ tỉnh xuống quận huyện, thiết lập các trại thanh lọc đến tận đơn vị làng xã.

Hai bộ máy đàn áp “công an mật vụ” và “tác chiến tinh thần” của chính quyền Diệm hoạt động ngày đêm. Chúng ráo riết thực hiện các phuơng châm: Tát nước bắt cá, giết lầm hơn bỏ sót nhằm tận diệt cái mà chúng gọi là mầm mống Cọng sản từ ý tưởng cá nhân, gia đình, dòng họ và thôn ấp. Chúng bắt hết những ai có dính líu xa gần với phong trào Hoà Bình, những người lơ là với chế độ (Diệm), những người có máu mặt, những Phật tử thuần thành, kể cả thân nhân của họ.

Chúng phân loại và nhốt hết theo từng đối tượng vào các trại thanh lọc, các trung tâm thẩm vấn, trại tạm giam, trại cải huấn và nhà tù để tiến hành các đối sách khác nhau bằng các biện pháp “Tác chiến tinh thần” kết hợp “với tác chiến thể xác”.

Cùng một lúc với việc rao giảng chủ nghĩa Duy linh, học thuyết Cần Lao Nhân Vị, chùng rả rích chửi bới chủ nghĩa Cộng sản, chửi bới miền Bắc tay sai Nga Tàu…, chúng mua chuộc, dụ dỗ, rủ rê các “can phạm” từ bỏ đảng Cộng sản, từ bỏ hàng ngũ kháng chiến trở về với “chính nghĩa Quốc gia”, theo đạo Thiên chúa, vào đảng Cần Lao, nhận lãnh các chức vụ thừa hành trong Nguỵ quân, Nguỵ quyền…, nếu không thì tra tấn đến thịt nát xương tan, tù đày chết chóc và liên luỵ đến gia đình. Côn Sơn, Thừa Phủ, Chí Hòa, Chín Hầm, Thanh Tân Ồ Ồ, …, và các địa chỉ bí mật ở khắp các  quận huyện là địa ngục trần gian, là cõi chết của hàng chục ngàn cán bộ, đảng viên và quần chúng yêu nước “đấu tranh dân chủ hợp pháp” vì các mục tiêu Hoà bình, hiệp thương thống nhất. Hàng chục ngàn gia đình tại Thừa Thiên – Huế đã tan nát, điêu linh vì mưu đồ: “ Một nước miền Nam riêng biệt và Thiên Chúa giáo” của anh em nhà họ Ngô, và “vỹ tuyến 17 là ranh giới lãnh thổ của Thế Giới Tự Do với sự bảo trợ của đồng minh Hoa Kỳ”.

CS: Với tư cách là người chỉ đạo trực tiếp, anh đánh giá thế nào về kết quả của phong trào Hoà Bình?

TH: Mình bị đich bắt ngày 25. 8.1945, từ đó mình trải nghiệm đầy đủ bày ngàn ngày đêm (20 năm) tại các địa ngục trần gian của các chế độ Việt Nam Cọng Hoà từ Ngô Đình Diệm đến Nguyễn Văn Thiệu. Rất nhiều thờì đoạn trong hơn bảy ngàn ngày đêm đó mình nhớ nghĩ, trao đổi, thảo luận với chính mình, với nhiều bạn tù (bị địch bắt từ Thừa Thiên – Huế, từ khu 5 và đặc biệt từ Sài Gòn Nam bộ) thuộc phong trào Hoà Bình.

Từ 1975 đến nay, trong bối cảnh đất nước hoàn toàn độc lập, thống nhất và hoà bình, hễ có dịp là tâm trí mình quay trở lại với những người, những việc, những sự kiện đã gắn bó với mình chỉ vọn vẹn  có hơn một năm một tháng ấy (mình vào Huế cuối tháng 7 năm 1954 và bị bắt tháng 8 năm 1955). Nhớ lại, nghĩ lại, suy gẫm, soát xét lại, trao đổi luận bàn với một vài đồng chí đã một thời sống chết với Hoà Bình như anh Tư Minh chẳng hạn… để rút ra một nhận định, một bài học cho chính mình, mà không bẽ bàng với những người đã khuất, đã hy sinh mất mát và không vô ích với những ai quan tâm đến một thởi điểm đặc biệt (1954, 1955, 1956…), một sự kiện lịch sử đặc biệt (phong trào Hoà Bình) tại một địa phương đặc biệt (Thừa Thiên – Huế):

… Thời điểm tháng 8 -1955 là đỉnh cao và cũng là bước thoái trào của cuộc vận động (Hoà Bình) tại Thừa Thiên – Huế, tại Sài Gòn và toàn miền Nam.

Giả định rằng phong trào Hoà Bình là một trận đánh và nhiệm vụ chiến lược của nó là bảo vệ hoà bình, đấu tranh theo tinh thần hiệp định Genève để tiến tới thống nhất đất nước thì kết quả của nó là một thất bại nặng nề. Bởi tất cả các mục tiêu đều không đạt được, mà hàng chục ngàn cán bộ đảng viên của Thừa Thiên – Huế (trong hàng trăm ngàn cán bộ đảng viên của toàn miền nam) đã bị loại khỏi vòng chiến đấu, bị giết chóc, bị tra tấn đến thương tật, bị đày đoạ trong những địa ngục trần gian, bị tan nát gia đình dòng họ hai ba thế hệ, thậm chí không ít người vì lí do này nọ đầu hàng phản bội, số ít còn lại bị đánh bật ra khỏi trận địa (thành phố, nông thôn) rút lên chiến khu hoặc thay đổi hành trạng và địa bàn chiến đấu, (đến một địa phương khác như Sàigon chẳng hạn), hoặc vượt tuyến ra miền Bắc, bỏ lại chiển trường (vùng tạm chiếm) cho đối phương mặc sức tung hoành trong một thời gian dài đến  8-9 năm.

Có mấy lý do dẫn đến tình tạng thoái trào trên:

      — Một là: Chúng ta đánh giá đối phương chưa thật sự thấu đáo. Trong chừng mực nào đó chúng ta đã tin vào tình tự dân tộc, lòng yêu nước, ý thức và khả năng dân chủ (kiểu tư sản) của các phe nhóm “Quốc Gia” cao hơn những gì họ có được. đồng thời chúng ta lại đánh giá thấp các thủ đoạn, mưu lược chính trị nhất thời cùng những ham muốn quyền lực, tham vọng thành lập quốc gia riêng biệt của tập đoàn Ngô Đình Diệm.

      — Hai là: Tình thế khách quan trong so sánh tương quan sức mạnh giữa ta (Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà không còn được Trung Quốc và Liên Xô viện trợ như trước đây – mấy năm sau của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp) với đế quốc Mỹ – con ác chủ bài trong “sách lược ngăn chận chủ nghĩa Cọng sản từ vĩ tuyến 17, không cho phép ta hành động gì khác với sách lược hoà bình.

      — Ba là: Sau chín năm kháng chiến chúng ta đã tiêu tốn quá nhiều sức lực của chiến sĩ nhân dân trong cả nước. Phải có thời gian để phục hồi, chuẩn bị lực lượng mới để đi tiếp nửa con đường còn lại : Giải phóng miền Nam.

Anh Tư Minh, người chỉ huy cao nhất của phong trào Hoà Bình tại Thừa Thiên –  Huế (1954 – 1955), sau 1975, trong một cuộc trao đổi tay đôi với mình đã tâm sự:

 — “Mình tưởng họ (phe quốc Gia Ngô đình Diệm) là người yêu nước nên đã tổ chức đấu tranh theo kiểu yêu nước (vận động, hiệp thương thống nhất). Mình tưởng họ là người dân chủ nên đã tổ chức đấu tranh theo kiểu dân chủ (đấu tranh hợp pháp). Té ra tình tự dân tộc và lòng yêu nước của họ không lớn hơn cái móng tay. Té ra tinh thần dân chủ của họ chưa đủ để treo đầu heo bán thịt chó. “Thực chất họ là một tập đoàn phong kiến và Thiên Chúa giáo Trung cổ. Cả hai thứ đó kết hợp lại biến họ thành một thế lực phát xít bạo tàn chống lại đất nước, chống lại nhân dân và kéo lùi lịch sử. Chỉ có thế thôi. Nếu không có Mỹ đứng đàng sau thì họ có nghĩa lí gì với sức mạnh của cả dân tộc, đặc biệt cái dân tộc ấy đã chấp nhận ngọn cờ kháng chiến do đảng Cọng sản dương cao, đã anh dũng kháng chiến đánh bại thực dân Pháp, đã làm nên một Điện Biên Phủ vang dội toàn cầu, đã buộc cộng đồng thế giới công nhận là chủ nhân của đất nước Việt Nam độc lập và toàn vẹn lãnh thổ.

 “Thành thật mà nói chúng ta đã trả giá quá đắt cho những ảo tưởng của mình.

“Tuy nhiên qua phong trào Hoà Bình, chúng ta thấy được hết bản tướng của đối phương (Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm). Chúng đã phô bày hết dã tâm can thiệp vào nội tình Việt Nam, kéo dài sự chia cắt đất nước. Dã tâm ấy đi ngược lại nguyện vọng, quyền lợi dân tộc và xu thế tất yếu của đất nước và thế giới.

“Không tính chuyện hoà bình được với chúng thì phải tính chuyện bạo lực thôi.

“Bởi vĩ tuyến 17 tuyệt đối không phải là ranh giới chính trị phân chia đất nước làm hai. Không có nước miền Nam, cũng không có nước miền Bắc. Chỉ có một nước Việt Nam độc lập, thống nhất với đầy đủ chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ trong tình tự và ý chí của cả dân tộc đã được cộng đồng quốc tế bắt đầu công nhận tại hội nghị Genève.

“Tổ tiên không chia miền Nam làm của hương hoả cho tập đoàn Ngô đình Diệm. Cộng đồng quốc tế không phân định vĩ tuyến 17 là ranh giới của nước Mỹ hay của bất cứ Thế giới nào.”

Chu Sơn.

<

p style=”text-align: justify;”>Chusonth@gmail.com

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Latest Articles

Ralph Murre Remembers Bill Guenzel Through Poem

Door County Pulse Podcasts · Remembering Bill Guenzel Bill Guenzel...

TUẦN THƠ 13: NHỚ NÚI

Chúng ta đã có tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ: cái mới trong ý tưởng và cái hay trong nhịp điệu; cùng cách làm thơ Tân hình thức Việt, và bây giờ là thời điểm của vận động sáng tác. Thơ Tân hình thức Việt tái định nghĩa, thơ là một hành trình hồi phục người đọc, so với điện ảnh và ca nhạc, đó là tham vọng chẳng có gì phải thất vọng, vì đó là thơ. Nhưng để hồi phục người đọc, phải hồi phục nhịp điệu thơ, và để có nhiều người đọc, phải có nhiều người sáng tác. Chúng tôi mong muốn có những sáng tác mới, áp dụng theo cách làm thơ Tân hình thức Việt, và ngoài việc sáng tác, xin các thân hữu bỏ ít nhiệt tâm vận động thêm người tham gia. Sáng tác xin gửi về email: baogiaytanhinhthuc@yahoo.com & info@thotanhinhthucviet.vn

CHỦ NGHĨA TOÀN THỂ HÌNH THỨC MỘT TUYÊN NGÔN – ANNIE FINCH

Gặp nhau để ăn mừng việc xuất bản tuyển tập trên, chúng tôi hai đứa nguệch ngoạc bản sơ thảo của tuyên ngôn này trên một tờ giấy ăn trong một quán lau ở tiểu bang New Orleans, Hoa Kỳ.

Writing Science Poetry

Writing Science Poetry - Làm Thơ Khoa học -...

TUẦN THƠ 50: THƠ XUÂN THỦY

THƠ XUÂN THỦY TẬN CÙNG Phận người y như những vần...

Related Articles

TUẦN THƠ 57: THƠ DỰ THI 1

Giải Diễn đàn thơ Tân hình thức Việt được trao tặng cho những sáng tác thơ xuất sắc do các thành viên tham gia sáng tác trong mục “Thơ Sáng Tác” hoặc gửi về Ban biên tập thơ theo địa chỉ thư điện tử, địa chỉ bưu điện. Những sáng tác của những thành viên trong Ban quản trị và Ban biên tập không được xét để trao giải thưởng.

Trăm năm ngày sinh nhà thơ Minh Hiệu: Nghĩ về nhân cách nhà văn

Nhà thơ LÊ TUẤN LỘC Tác phẩm chính đã xuất bản Bài thơ Mưa núi, trong tuyển tập thơ kháng chiến. ...

VIRUS VŨ HÁN VÀ CÂU CHUYỆN TÌNH YÊU

When we try to help others, they consider us enemies. But we can thank them because, through them, we can know the nature of each person. The Wuhan Virus helps us to recognize the good and the bad, to rise above both to retain our human affection. Thanks to that, new love arises. Hopefully.