PHAN PHÚ YÊN
Và đặc biệt là Hải Phòng, thành phố cảng nơi ông sinh ra và là nguồn cảm hứng để ông viết nên nhiều tác phẩm xuất sắc.
Khởi đầu và khẳng định sự nghiệp đồ sộ
“Với tài năng đa dạng, độc đáo, nhiều chiều kích lồng ghép khéo léo giữa tư duy, thẩm mỹ, phong cách viết, giữa đời sống thực, cảm giác, nhận thức và biểu hiện nghệ thuật, giữa âm nhạc và xã hội. hội họa – thơ ca, Văn Cao được nhiều người khẳng định là một hiện tượng vô cùng đặc biệt, hiếm có trong lịch sử nghệ thuật hiện đại Việt Nam. Gọi ông là nghệ sĩ thiên tài cũng không phải là quá đáng hay cường điệu” – đó là cảm nhận của Phó Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thế Kỷ, Chủ tịch Hội đồng Lý luận và Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương tại Hội nghị Khoa học toàn quốc. nhạc, hội họa và thơ Văn Cao” được tổ chức vào cuối năm 2023 tại Hà Nội.
Nghệ sĩ thiên tài Văn Cao tên đầy đủ là Nguyễn Văn Cao, sinh ra trong một gia đình quan chức ở vùng đất cảng nay thuộc phường Lạch Tray, quận Ngô Quyền, thành phố Hải Phòng. Bố là giám đốc Nhà máy nước Hải Phòng nên có điều kiện cho con đi học.
Sau khi học xong tiểu học tại trường Bonnal, ngài học trung học tại chủng viện Saint Josef. Tại ngôi trường này anh cũng bắt đầu học những nốt nhạc đầu tiên. Đến cuối năm thứ hai làm tướng, cuộc sống gia đình khó khăn, ông phải nghỉ học và sớm tìm được việc làm để mưu sinh. Không chỉ là nơi sinh ra và lớn lên, Hải Phòng còn là nơi hình thành và khẳng định sự nghiệp lẫy lừng của Văn Cao.
Từ cuối những năm 1930, khi nền âm nhạc mới Việt Nam dần hình thành, nhiều nhạc sĩ tiên phong đã xuất hiện ở Hải Phòng như Đình Như, Lê Thương, Hoàng Quý, Văn Cao, Cảnh Thân, Đỗ Nhuận, Tố Vũ, Đoàn Chuẩn…
Vào một buổi chiều mùa thu buồn, khi giới nghệ thuật tiễn biệt một tài năng văn chương lớn còn quá non trẻ Vũ Trọng Phụng về nơi an nghỉ cuối cùng tại Hà Nội, ca khúc đầu tiên “Nỗi buồn mùa thu” của một tài năng lớn khác lại xuất hiện. Tại Hải Phòng, Văn Cao ra đời. Trong thời gian này, Văn Cao gặp Phạm Duy, ca sĩ trong đoàn Đức Huy.
Giọng ca Phạm Duy, Thái Thanh khiến “Nỗi buồn mùa thu” nhanh chóng lan rộng và trở nên nổi tiếng: “Em ơi! Anh vẫn biết em nhớ anh/Tình yêu ngày xưa vẫn còn xa xăm trong tim/Nhờ bóng dáng em Chim uyên ương và cơn gió mang số phận, chim và gió bay về và anh quên hết lời thề…/Quên đi, tình anh như mùa thu chết rơi lá vàng.
Bản tình ca mang âm hưởng ca trù với ca từ theo phong cách thơ Đường cổ điển. “Buồn Thu Cuối” được viết khi Văn Cao mới 16 tuổi. Năm 17 tuổi, ông sáng tác Thiên Thái, thành quả sau một chuyến đi vào Nam rồi đi thuyền trở về trên sông Phi Liệt ở Thủy Nguyên, Hải Phòng, lấy cảm hứng từ câu chuyện Lưu Nguyên lạc vào thế giới Đạo giáo. Nguyên: “Thiên đường/Ánh trăng xanh mộng mơ tan thành dòng nước trần gian/Tình yêu thiên đường em tưởng một thời điên cuồng…”.
Theo nhạc sĩ Nguyễn Thúy Kha: “Thiên thai là khát vọng sống cao siêu, vượt qua mọi trở ngại. Về âm nhạc, trong Thiên Thái, bên cạnh việc tiếp tục khai thác âm ca trù, cụ thể là âm thanh “nhạc hò”, Văn Cao còn bắt đầu chú ý đến những thay đổi lâu dài, “Thiên Thái” là chỗ dựa vững chắc để Văn Cao tiến tới “sông Lô” chảy êm đềm trong cuộc kháng chiến sau này. Không chỉ học hỏi phương Tây, Văn Cao còn ý thức được sự cần thiết phải Việt hóa âm nhạc phương Tây.”
Theo nhạc sĩ Nguyễn Thụy Kha: “Trong năm dòng sông Lô bằng âm thanh có “Sông Lô” của Lương Ngọc Trác, “Người lính sông Lô” của Nguyễn Đình Phúc, “Sông lô chiến thắng” của Lưu Hữu Phước, “Tiếng hát Lô “Tiếng hát bên sông Lô” của Phạm Duy, sử thi “Song Lô” của Văn Cao vẫn là tác phẩm âm nhạc mạnh mẽ nhất, trôi chảy như một bức tranh hùng vĩ và thoáng qua hình ảnh đội quân pháo binh tương lai. góp phần vào chiến thắng Điện Biên.
Nó giống với cấu trúc của sử thi “Sông Đá Nuyp” của J.Strau, nhưng trong cấu trúc đó nó chứa đựng nhịp điệu hành khúc, múa dân gian vùng núi phía Bắc và đặc biệt là nhịp chèo (Bacrcaron) của người dân. đánh bắt cá ở vùng sông Trung du”.
Nguồn cảm hứng cho các thiên tài
Trong thời tuổi trẻ sôi nổi ở cảng Hải Phòng, Văn Cao còn tham gia nhóm nhạc Đồng Vọng do Hoàng Quý chỉ huy, với các thành viên Đỗ Nhuận, Tô Vũ, Cảnh Thân…. Những ca khúc trinh sát của Văn Cao với những nhạc cụ hồn nhiên, vui tươi, mang tinh thần yêu nước, yêu đồng bào ra đời từ đây như: “Gió núi”, “Anh em nắm tay nhau”, “Gò Đống Đa”.
Đặc biệt, “Hải Phòng bao la mây nước/ Bao la bốn chân trời” cũng là nguồn cảm hứng cho nhiều bài thơ của Văn Cao, đặc biệt là sử thi “Người ở cửa biển” sáng tác năm 1956: “ Hải Phòng ra đời khi tôi sinh ra/ Cây mận trồng đầu nhà/ Bãi cát thành bến tàu/ Nhà máy xi măng xây dựng bên sông.
Sử thi “Người ở cửa biển” được coi là sự thử nghiệm thành công của Văn Cao trên hành trình làm thơ còn khá khiêm tốn của mình. Bởi trong suốt cuộc đời, ông không làm thơ nhiều mà chỉ xuất bản tập “Những chiếc lá” gồm 28 bài thơ. Để rồi sau khi mất, ông xuất bản Tuyển tập Văn học và Cao Thọ cũng chỉ có 59 bài thơ. Tuy nhiên, đóng góp thiên tài của Văn Cao cho thơ ca không kém gì âm nhạc và hội họa.
Với thơ ca, chỉ có sử thi “Người trên cửa biển” là gắn liền với Hải Phòng. Nhà lý luận phê bình Nguyễn Đăng Điệp, Viện trưởng Viện Văn học cũng khẳng định: “Với sử thi này, Văn Cao đã đánh dấu một cột mốc quan trọng trong lịch sử phát triển sử thi Việt Nam hiện đại.
Nếu tính một cách chi tiết, trước Văn Cao đã xuất hiện những sử thi/thơ dài với “Tiếng giặc trên sông Ô” của Huy Thông hay “Quốc kỳ” và “Hội nghị ngoài sông” của Xuân Diệu. Nhưng điều đáng nói là Văn Cao đã phát triển sử thi của mình với chiến lược táo bạo và góc nhìn độc đáo: Tôi yêu Hải Phòng như Việt Nam nhỏ bé hơn/Tôi yêu Việt Nam như tôi biết yêu tôi.