Khi nhà văn Bảo Ninh, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Nỗi buồn chiến tranh, đang trên đường vào Sài Gòn cùng đoàn quân chiến thắng thì Nguyễn Một, tác giả tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”” vừa đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, một cậu bé 12 tuổi đang theo chú mình trong một nhóm người chạy trốn. Chính sự khác biệt về thân phận của hai nhà văn đã tạo nên sự khác biệt cơ bản trong hai cuốn tiểu thuyết chiến tranh từng đoạt giải thưởng này.
Không gian chính của cuốn tiểu thuyết nằm ở một thị trấn nhỏ yên bình cách Sài Gòn không xa. Ở đó có đầy đủ những cảnh tượng đặc trưng của đô thị miền Nam trong chiến tranh. Những quán cà phê nhỏ xinh ven sông nơi khách hàng chủ yếu là học sinh cấp 3, quán rượu nghèo nơi thực khách ngày càng nhiều thương binh trở về từ chiến trường, nhà thờ với cha xứ. Người già luôn rung chuông, có lẽ để cầu nguyện cho linh hồn những người lính đã hy sinh trong trận chiến, số lượng ngày càng tăng…
Tất cả những hình ảnh đó chưa từng xuất hiện trong các tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam thời hậu chiến như “Nỗi buồn chiến tranh”.
Thị trấn Thủ Biên, một nơi không có trên bản đồ, không chỉ có những khung cảnh yên bình giả tạo như phần đầu tiểu thuyết. Sự tàn khốc của chiến tranh chính là thông điệp mà nhà văn muốn truyền tải. Ở thị trấn nhỏ này, chiến tranh không chỉ là tin tức về những trận chiến từ xa. Những cảnh bắt lính, trốn lính, lựu đạn nổ ngay cạnh nhà thờ cho chúng ta cảm giác chân thực về thời kỳ hỗn loạn. Bằng lối miêu tả có phần lạnh lùng, người viết hiện ra trước mắt chúng ta một không khí hỗn loạn trong khoảng thời gian “từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”, có lẽ là khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1975.
Từ Thủ Biên, một thị trấn nhỏ, tác giả đưa độc giả khắp miền Nam trình bày nỗi đau của thời chiến. Sâu trong làng chiến tranh hiện diện khắp nơi. Đạn lạc không chỉ giết chết người nông dân như ông Nguyễn Xí. Có những cái chết rình rập khắp nơi trên khắp miền Nam. Chết và chết.
“Mùa hè năm ấy – mùa hè lạ lùng nhất ở Thủ Biên. Hoa phượng chợt đỏ hoe, nắng đỏ rực, buổi chiều rực đỏ mỗi khi mặt trời dần lặn xuống bờ sông. Màu đỏ đau đớn như vệt máu trải dài khắp bầu trời. Tin tức chiến tranh cũng nóng hổi trên các mặt báo.” Đoạn văn này có lẽ là một trong những đoạn ám ảnh nhất trong tiểu thuyết.
Tuy nhiên, điều người viết muốn nhấn mạnh không chỉ có bom đạn. Những quả bom có thể chỉ là cái cớ trong cuốn tiểu thuyết này, để tác giả cài đặt một thông điệp lớn hơn nhiều. Đó là bi kịch bi thảm của dân tộc này.
Một gia đình mà hai bên con cái mà cầm súng chĩa vào nhau là một bi kịch lớn cho dân tộc. Nhà văn đã cố gắng khắc họa bi kịch này và đã thành công. Không có cuốn tiểu thuyết nào về chiến tranh Việt Nam thứ hai thành công hơn “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” ở góc độ này, vì vậy nó xứng đáng được đọc chứ không chỉ vì giải thưởng.
Khi nhà văn Bảo Ninh, tác giả cuốn tiểu thuyết nổi tiếng Nỗi buồn chiến tranh, đang trên đường vào Sài Gòn cùng đoàn quân chiến thắng thì Nguyễn Một, tác giả tiểu thuyết “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”” vừa đoạt giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam, một cậu bé 12 tuổi đang theo chú mình trong một nhóm người chạy trốn. Chính sự khác biệt về thân phận của hai nhà văn đã tạo nên sự khác biệt cơ bản trong hai cuốn tiểu thuyết chiến tranh từng đoạt giải thưởng này.
Không gian chính của cuốn tiểu thuyết nằm ở một thị trấn nhỏ yên bình cách Sài Gòn không xa. Ở đó có đầy đủ những cảnh tượng đặc trưng của đô thị miền Nam trong chiến tranh. Những quán cà phê nhỏ xinh ven sông nơi khách hàng chủ yếu là học sinh cấp 3, quán rượu nghèo nơi thực khách ngày càng nhiều thương binh trở về từ chiến trường, nhà thờ với cha xứ. Người già luôn rung chuông, có lẽ để cầu nguyện cho linh hồn những người lính đã hy sinh trong trận chiến, số lượng ngày càng tăng…
Tất cả những hình ảnh đó chưa từng xuất hiện trong các tiểu thuyết về chiến tranh Việt Nam thời hậu chiến như “Nỗi buồn chiến tranh”.
Thị trấn Thủ Biên, một nơi không có trên bản đồ, không chỉ có những khung cảnh yên bình giả tạo như phần đầu tiểu thuyết. Sự tàn khốc của chiến tranh chính là thông điệp mà nhà văn muốn truyền tải. Ở thị trấn nhỏ này, chiến tranh không chỉ là tin tức về những trận chiến từ xa. Những cảnh bắt lính, trốn lính, lựu đạn nổ ngay cạnh nhà thờ cho chúng ta cảm giác chân thực về thời kỳ hỗn loạn. Bằng lối miêu tả có phần lạnh lùng, người viết hiện ra trước mắt chúng ta một không khí hỗn loạn trong khoảng thời gian “từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9”, có lẽ là khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 1975.
Từ Thủ Biên, một thị trấn nhỏ, tác giả đưa độc giả khắp miền Nam trình bày nỗi đau của thời chiến. Sâu trong làng chiến tranh hiện diện khắp nơi. Đạn lạc không chỉ giết chết người nông dân như ông Nguyễn Xí. Có những cái chết rình rập khắp nơi trên khắp miền Nam. Chết và chết.
“Mùa hè năm ấy – mùa hè lạ lùng nhất ở Thủ Biên. Hoa phượng chợt đỏ hoe, nắng đỏ rực, buổi chiều rực đỏ mỗi khi mặt trời dần lặn xuống bờ sông. Màu đỏ đau đớn như vệt máu trải dài khắp bầu trời. Tin tức chiến tranh cũng nóng hổi trên các mặt báo.” Đoạn văn này có lẽ là một trong những đoạn ám ảnh nhất trong tiểu thuyết.
Tuy nhiên, điều người viết muốn nhấn mạnh không chỉ có bom đạn. Những quả bom có thể chỉ là cái cớ trong cuốn tiểu thuyết này, để tác giả cài đặt một thông điệp lớn hơn nhiều. Đó là bi kịch bi thảm của dân tộc này.
Một gia đình mà hai bên con cái mà cầm súng chĩa vào nhau là một bi kịch lớn cho dân tộc. Nhà văn đã cố gắng khắc họa bi kịch này và đã thành công. Không có cuốn tiểu thuyết nào về chiến tranh Việt Nam thứ hai thành công hơn “Từ giờ thứ 6 đến giờ thứ 9” ở góc độ này, vì vậy nó xứng đáng được đọc chứ không chỉ vì giải thưởng.