SÁNG TÁC THEO CÁCH LÀM THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT

Có điều, thơ không thể dịch vì không thể dịch âm thanh và nhạc tính ngôn ngữ, từ Đông sang Tây, ai cũng biết như vậy. Đã có bao nhiêu bài thơ Đường luật dịch ra tiếng Việt, đạt như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu do Tản Đà dịch? Có bài thơ tiếng Anh, tiếng Pháp nào dịch ra tiếng Việt đúng theo tiêu chuẩn thơ Việt như Hoàng Hạc Lâu?

SÁNG TÁC THEO CÁCH LÀM THƠ TÂN HÌNH THỨC VIỆT


“Thơ Tân hình thức Việt kết hợp những yếu tố của thể luật và tự do, sáng tác với cả hai bán cầu não phải và trái. Cũng cần nhắc lại, thơ thể luật (vần điệu) sáng tác nghiêng về cảm xúc với bán cầu não phải, còn thơ tự do nghiêng về lý trí là loại thơ trí tuệ, với bán cầu não trái. Thơ Tân hình thức Việt phối hợp cả hai, giữa cảm xúc và trí tuệ, và nhịp điệu thơ là chiếc cầu nối. Trong não bộ, bán cầu não phải và trái được phân chia bởi mạng kết nối Corpus callosum. Người có Corpus callosum lớn có thể truyền tải dễ dàng dữ kiện giữa bên phải và trái não. Câu hỏi đặt ra, bán cầu não phải thuộc sáng tạo, còn bán cầu não trái thuộc phân tích, lý luận, nhưng tại sao tác phẩm sáng tạo lại đòi hỏi sự phối hợp của cả hai? Cái biết (ý tưởng mới hay ánh chớp lóe) đầu tiên thuộc bán cầu não phải, nhưng cái biết đầu tiên chỉ là cái biết từng phần, chưa đầy đủ và lập tức ghim thành thói quen nơi bán cầu não trái, cứ như thế cho đến khi cái biết (ý tưởng) đầy đủ trở thành kiến thức, nằm ở bán cầu não trái. Kiến thức phối hợp với các yếu tố khác tạo thành nội dung. Và nhịp điệu thơ, tương tự như mạng nối kết Corpus callosum trong não bộ, tùy thuộc cách làm thơ, phải đọc lên thành tiếng, hay đọc thầm trong đầu (đọc đi đọc lại nhiều lần), như vậy mới khơi dậy được cảm xúc và hòa nhập với nội dung, làm chuyển động quá trình sáng tạo. Đó là cách duy nhất để nhịp điệu có thể kết nối hai bán cầu não phải và trái với nhau trong sáng tác. Bởi vì nhịp điệu thơ thuộc bán cần não phải. Mà bán cầu não phải cần thiết cho việc am hiểu cảm xúc trong ngôn ngữ nói, thể hiện qua giọng hát, âm độ và sự chuyển giọng. Trái lại với nhịp điệu thơ, nhịp điệu văn xuôi thuộc bán cầu não trái, chỉ cần viết trên giấy như khi viết văn xuôi.”

Trích “Những bước đi mới hay câu hỏi về nhịp điệu thơ Tân hình thức Việt”


“Trường hợp, do thói quen tình cờ, một người làm thơ thường sáng tác vào những lúc nửa thức nửa ngủ, chuyện gì sẽ xảy ra? Trong khoảng thời gian đó, chúng ta tránh được sự can dự quá nhiều của tâm trí – khi suy nghĩ về thơ, chúng ta có thể dùng tâm trí để lý luận, tìm kiếm kiến thức, nhưng khi sáng tác chúng ta cần thóat khỏi những ràng buộc của tâm trí. Mỗi thể loại thơ có cách làm thơ khác nhau, thơ vần điệu dựa vào cảm xúc, thơ tự do dùng tâm trí, còn thơ Tân hình thức kết hợp giữa cảm xúc và tâm trí. Khi làm thơ, trong trạng thái lơ mơ giữa thức ngủ đó, chúng ta phải tìm cách nhớ lại những câu chữ vừa mới sáng tác, bằng cách đọc lên (đọc thầm trong đầu), và đọc đi đọc lại nhiều lần, vì không có sẵn giấy bút để ghi lại. Khi sáng tác thơ vần điệu, người ta ngâm nga, mục đích làm những âm thanh bằng trắcvần, nhịp nhàng với nhau, để tạo nhạc tính. Thơ tự do viết và sửa đi sửa lại trên trang giấy (đa số những nhà thơ tự do nổi tiếng, đều sửa đi sửa lại thơ họ). Còn thơ Tân hình thức, nếu không đọc lên thì làm sao phối hợp những âm thanh bằng trắc và những chữ lập lại trong bài thơ để tạo thành nhịp điệu? Những chữ kép lập lại đóng vai trò như vần trong thơ vần điệu, nhưng rải ra khắp bài thơ, nên không rơi vào sự đều đặn, hạn chế như vần ở cuối giòng của thơ vần điệu. Điều này làm cho nhịp điệu trong thơ Tân hình thức Việt phong phú và khác biệt, nơi từng bài thơ và từng người làm thơ, đẩy tới nhiều mức độ khác nhau, từ trầm lắng đến sôi nổi. Nhưng dù ở mức độ nào, người đọc cũng phải nhận ra được nhịp điệu thơ.

“Câu chuyện trên rút ra kết luận: Không có gì bắt buộc chúng ta phải sáng tác trong lúc ngủ, mà có thể sáng tác bất cứ lúc nào cảm thấy có hứng khởi, ban ngày cũng như ban đêm, lúc thức cũng như lúc ngủ. Trong trường hợp này, hành động đọc đi đọc lại nhiều lần, không phải để nhớ, mà để hình dung ra nhịp điệu của thơ. Và việc ghi lại trên giấy mới có tác dụng để nhớ.  Khi đọc, và đọc đi đọc lại, sẽ hạn chế sự nghĩ của tâm trí, và bài thơ tiến hành theo những cảm nhận tự nhiên, chứ không phải từ những sắp xếp của lý trí. Sự ghi lại trên giấy khi bài thơ hoàn tất, chẳng khác nào quay trở lại một truyền thống mới là chữ in trong thời đại mà chữ in đang dần dần bị lãng quên, có lẽ là điều mà nhà thơ Frederick Turner gọi là ‘Truyền thống mới cái đẹp xưa’ chăng?”

Trích, “Nhịp điệu thơ Tân hình thức Việt trong tiến trình sáng tác”.


Một bài thơ Tân Hình Thức Việt điển hình phải đáp ứng các quy-/luật-tắc sau đây:

  1. Bài thơ phải mang hình thể một bài thơ trong những thể thơ Việt thông dụng!
  2. Bài thơ phải có ý tưởng và câu chữ liền lạc với kỹ thuật vắt dòng
  3. Sự lặp lại để tạo nhịp điệu phải tự nhiên và đa dạng theo cách làm thơ Tân hình thức Việt
  4. Bài thơ phải xử dụng ngôn ngữ thông thường
  5. Phải là thơ không vần chứ không là thơ vần điệu

Ngoài những yếu tố kỹ thuật, bài thơ được cho là hay còn tùy thuộc vào sự áp dụng nhuần nhuyễn và đồng bộ của các yếu tố kỹ thuật cùng ý tưởng mới lạ!


NHỮNG THÍ DỤ CỤ THỂ VỀ Ý TƯỞNG LIỀN LẠC
HAY THƠ DỊCH ĐỌC NHƯ TÂN HÌNH THỨC VIỆT


Qua những bài tiểu luận, chúng ta đã có cách làm thơ để tạo nhịp điệu, nhưng còn ý tưởng và câu chữ liền lạc phải làm sao? Chúng ta cần có những sáng tác cụ thể để qua đó phát triển khả năng sáng tạo của người làm thơ. Thơ tiếng Anh là loại thơ mạnh về cách diễn đạt những ý tưởng và câu chữ liền lạc, chắc hẳn sẽ giúp người làm thơ kinh nghiệm và áp dụng vào thơ Tân hình thức Việt. Có điều, thơ không thể dịch vì không thể dịch âm thanh và nhạc tính ngôn ngữ, từ Đông sang Tây, ai cũng biết như vậy. Đã có bao nhiêu bài thơ Đường luật dịch ra tiếng Việt, đạt như bài Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu do Tản Đà dịch? Có bài thơ tiếng Anh, tiếng Pháp nào dịch ra tiếng Việt đúng theo tiêu chuẩn thơ Việt như Hoàng Hạc Lâu? Chắc là không. Vì vậy mà người đọc Việt bình thường, từ trước tới nay, ít ai đọc thơ dịch, vì khô khan và không thấy gì lôi cuốn. Đó là lý do, qua phương tiện dịch thuật, mục đích của chúng ta đi tìm một tiêu chuẩn chuyển dịch để dịch một số bài thơ tiếng Anh, cả thể luật lẫn tự do, có thể đọc tương đương như đọc một bài thơ Tân hình thức Việt – dịch thành thơ, góp phần thay đổi định kiến từ trước tới nay, dịch là diệt. Dịch, như vậy, cũng nằm trong tiến trình của sáng tạo.

Điều ngạc nhiên, trong số những bài thơ tiếng Anh được chuyển dịch dưới đây có cả thơ thể luật và thơ tự do. Thơ thể luật tiếng Anh theo luật tắc của dòng thơ. Luật tắc thông dụng nhất là dòng thơ 10 âm tiết (mỗi âm tiết tương đương với một chữ trong tiếng Việt), iambic parameter (không nhấn, nhấn, lập lại 5 lần như vậy thành 10 âm tiết). Những nhà thơ thể luật gồm: Dana Gioia, Frederick Feirstein, Sydney Lea. Số còn lại là những nhà thơ tự do: Tom Riordan, Phillip A. Ellis.

Đối với thơ thể luật tiếng Anh, dòng 10 âm tiết, chúng ta dùng thể thơ 8 chữ để dịch. Còn những bài thơ của những nhà thơ tự do, chúng ta thấy có dáng dấp của những thể thơ Tân hình thức Việt. Nhưng thật ra, đó là thơ do những nhà thơ tự do sáng tác. Họ tạo ra hình thức thơ giống như những thể thơ nhưng không theo luật tắc như thơ thể luật. Số âm tiết mỗi dòng thơ không đồng đều, từ 5 tới 7 âm tiết. Sự tương đồng giữa những bài thơ thể luật và tự do nguyên tác tiếng Anh là cách diễn đạt với những ý tưởng và cảm xúc liền lạc. Điều ngẫu nhiên, cách diễn đạt này cũng trùng hợp với thơ Tân hình thức Việt. Mỗi ngôn ngữ, đơn âm hoặc đa âm, có văn phạm khác nhau, luật tắc và cách làm thơ khác nhau, vì vậy khi dịch thơ, tự do hay thể luật không phải là mối bận tâm của người dịch. Vấn đề quan trọng là tìm trong bài thơ nguyên tác có yếu tố chung nào với thơ Việt hay không, ở đây là cách diễn đạt. Thơ Tân hình thức Việt chủ trương nối kết giữa quá khứ và hiện tại, giữa truyền thống và tự do, giữa nền văn hóa này và nền văn hóa khác, quan trọng hơn giữa bán cầu não trái và phải trong sáng tác. Chủ trương như vậy không hề có trong thơ Tân hình thức Mỹ. Nhưng không ngờ, trong thơ dịch, Tân hình thức Việt cũng có khả năng nối kết cả hai thể loại thể luật và tự do của thơ tiếng Anh.

Nhưng loại thơ này trong thơ Mỹ không phải dễ làm. Từ những nhà thơ đã quá cố như Williams Carlos Williams, Frank O’ Hara cho đến những nhà thơ đương thời như Tom Riordan, Phillip A. Ellis lâu lâu mới có một bài, còn đa phần là những bài thơ tự do thông thường. Vì thế, tuy không được coi là cách làm thơ chính thức, nhưng đang được phổ biến. Điều ghi nhận, một số nhà thơ trẻ hiện nay, cũng có khuynh hướng làm loại thơ dòng ngắn này nhưng bằng luật tắc thơ thể luật chứ không phải thơ tự do.

Như đã trình bày, những bài thơ dịch từ thơ tiếng Anh chỉ tiêu biểu cho ý tưởng liền lạc và câu chữ trong thơ. Còn nhịp điệu thơ Tân hình thức Việt, như chúng ta biết, tùy thuộc vào cách làm thơ, và vào bản thân của ngôn ngữ Việt.


Dana Gioia
PITY THE BEAUTIFUL
Pity the beautiful,
the dolls, and the dishes,
the babes with big daddies
granting their wishes.
Pity the pretty boys,
the hunks, and Apollos,
the golden lads whom
success always follows.
The hotties, the knock-outs,
the tens out of ten,
the drop-dead gorgeous,
the great leading men.
Pity the faded,
the bloated, the blowsy,
the paunchy Adonis
whose luck’s gone lousy.
Pity the gods,
no longer divine.
Pity the night
the stars lose their shine.
Dana Gioia
TỘI NGHIỆP NGƯỜI ĐẸP
Tội nghiệp người đẹp, những người đàn
bà hấp dẫn, những người đàn bà
thon gọn, những người đàn bà trẻ
với những nhân tình ra vẻ, đang
Ban phát cho họ những ước muốn.
Tội nghiệp những chàng đẹp trai, những
chàng trai lực lưỡng, và những chàng
trai nam tính, những chàng trai vàng
Mà sự thành công luôn luôn bám theo.
Những người lôi cuốn sự thèm muốn,
những người cám dỗ không cưỡng được,
những người ở hạng thóp, những người
Ngọai hạng, những người đàn ông hàng
đầu hết sẩy. Tội nghiệp kẻ tàn
lụi, kẻ béo phị, kẻ nhếch nhác,
chàng đẹp trai nay đã bụng phệ
Sự may mắn đến nước tồi tệ.
Tội nghiệp những vị thánh không còn
thiêng, tội nghiệp đêm, những vì
sao đánh mất sự chói sáng.

Ghi chú
Apollos và Adonis là những vị thần thời cổ đại La Hy, chỉ những chàng đẹp trai. Nguyên tác thì kiệm lời, nhưng bản dịch thì nhiều lời để làm rõ ý, một phần vì bài thơ dùng nhiều tiếng lóng.


Tom Riordan
THE CAR WINDOW
shattered into empty
sunflower husks
on the macadam
and inside the bar
a woman spit glass (*)
into a tin ashtray
and told her lover
that neither of them
was ever going to
hit the other again.
Tom Riordan
KÍNH CỬA XE
bị đập bể trông giống những
vỏ rỗng hạt của hoa hướng
dương trên đường trải nhựa và
bên trong quán rượu một người
đàn bà nhổ chiếc răng gẫy
vào cái gạt tàn bằng thiếc
và bảo người bồ rằng không
một ai trong bọn chúng vào
bất cứ lúc nào được đi
đánh kẻ khác lần nữa.

Ghi chú
glass: ám chỉ chiếc răng gẫy. “spit glass”, idiom, diễn tả sự tức giận.


Tom Riordan
IMAGE THE SCAVENGER’S ECSTASY
as he lowers himself into the bin
and opens up the first big bag—
this, after a week of mostly slugs
and chewing over last year’s pretty
much worked-over hickory nuts.
Each night he tries the Italian deli’s
door and tonight it was unlocked—
each night he propositions every
girl in the shot-&-beer joint and
tonight every one of them said yes.
He doesn’t need an eternity of bliss.
One single glorious night like this,
and then each night recalling it,
and hoping that it happens again,
is paradise enough for a raccoon.


TWO SMALL FANS
With two small fans
our room sounds like
a 727 Whisper-Jet
and we are halfway
to the Virgin Islands
for our honeymoon.
A movie star’s boat
is anchored offshore
and his plate piled
with napoleons and
creampuffs directs
us to check out his
gut. What we adore
most are breakfast
and the newspaper
quietly delivered to
our surfside cabana
and trying to keep
up with eagle rays
in the lagoons. Oh,
we are not ready to
go home! All that
awaits us two floors
up from the bakery
is a sweltry studio
apartment whose
single saving grace
is its two small fans.

Tom Riordan
TƯỞNG TƯỢNG SỰ NGÂY NGẤT CỦA KẺ
VIẾT VĂN DÂM Ô
Như hắn tự thả mình trong thùng rác
Và mở cái bao lớn đầu tiên – điều
này, sau một tuần ăn hầu hết những
con ốc sên và nhai hết những hạt
mại châu héo khô hơi nhiều năm ngóai
Mỗi đêm hắn thử một cửa hàng Ý
và đêm nay cửa hàng mở cửa – mỗi
đêm hắn gạ gẫm một cô gái ở
quán rượu rẻ tiền và đêm nay mỗi
cô đều đồng ý. Hắn không cần niềm
vui sướng vĩnh cửu. Một tối lẻ loi
huy hòang như vầy, và để rồi mỗi
đêm nhớ lại, và hy vọng trở lại
đó là vườn địa đàng đủ cho một
con gấu trúc.


HAI QUẠT MÁY NHỎ
Với hai quạt máy nhỏ căn
phòng của chúng tôi kêu vang
như chiếc phản lực 727-
Whisper và chúng tôi đang
trên nửa đường tới Virgin
Islands hưởng tuần trăng mật.
Con tàu của một ngôi sao
điện ảnh được neo ở ngoài
bãi biển và cái đĩa đầy
bánh ngọt napoleons
và creampuffs làm chúng tôi
nhận ra cái bụng phệ của
hắn. Điều chúng tôi thích nhất
là bữa điểm tâm và tờ
nhật báo được lặng lẽ giao
tới tận lều ở bãi biển
và cố gắng theo kịp những
con cá đuối ở hồ nước
mặn. À, chúng tôi chưa sẵn
sàng về nhà. Tất cả đang
chờ đợi chúng tôi là cái
studio nóng và ẩm
trong một chung cư ở trên
lò bánh mì hai tầng lầu
mà sự đoái công chuộc tội
độc nhất của nó là hai cái
quạt máy nhỏ.


Frederick Feirstein
SHAKESPEARE
If I could live a Muslim cabbie’s day
Driving in traffic, parking at noon to pray
In 96th Street’s Mosque, I’d stop to chat
With vendors hawking fruit, pashminas, books
Even about my centuries of fame;
If I could be a New York City hack
I’d give up every sonnet, every play,
Not in disgrace with men’s eyes, not in shame
For just one sandwich stuffed with sizzling fat
Plump Falstaff (*) in a greasy apron cooks,
I’d take blank time, not scripted Fortune, back.
Frederick Feirstein
SHAKESPEARE
Nếu tôi có thể sống một ngày của
Người tài xế taxi Hồi giáo lái
Trong lúc đông xe, ngừng lại buổi trưa
Cầu nguyện tại Thánh đường Hồi giáo đường
96, tán gẫu với những người bán
Trái cây, khăn trùm đầu, sách, ngay cả
Hàng thế kỷ tăm tiếng của tôi; nếu
Tôi có thể là người tài xế taxi
Ở thành phố New York, tôi  sẽ từ
Bỏ mỗi bài thơ, mỗi vở kịch, không
Được trọng vọng dưới mắt mọi người, không
Xấu hổ với chỉ chiếc bánh sandwich
Nhét đầy mỡ nóng do Falstaff béo
Tròn mặc tạp dề dính dầu mỡ làm,
Tôi chọn một tương lai mở, không
Phải thứ tương lai tiền định, ngược đời.

Ghi chú
Sir John Falstaff là nhận vật trong kịch William Shakerspeare.


Frank O’ Hara
MORNING
I’ve got to tell you
how I love you always
I think of it on grey
mornings with death
in my mouth the tea
is never hot enough
then and the cigarette
dry the maroon robe
chills me I need you
and look out the window
at the noiseless snow
At night on the dock
the buses glow like
clouds and I am lonely
thinking of flutes
I miss you always
when I go to the beach
the sand is wet with
tears that seem mine
although I never weep
and hold you in my
heart with a very real
humor you’d be proud of
the parking lot is
crowded and I stand
rattling my keys the car
is empty as a bicycle
what are you doing now
where did you eat your
lunch and were there
lots of anchovies (*) it
is difficult to think
of you without me in
the sentence you depress
me when you are alone
Last night the stars
were numerous and today
snow is their calling
card I’ll not be cordial
there is nothing that
distracts me music is
only a crossword puzzle
do you know how it is
when you are the only
passenger if there is a
place further from me
I beg you do not go
Frank O’ Hara
BUỔI SÁNG
Tôi phải nói với em
làm sao tôi luôn yêu
em tôi nghĩ về điều
đó vào những buổi sáng
xám với nỗi chết trong
miệng rồi trà chưa bao
giờ đủ nóng và thuốc
lá khô chiếc áo khoác
màu hạt dẻ làm tôi
lạnh tôi cần em và
nhìn tuyết im ắng ngoài
cửa sổ trong đêm nơi
vũng tàu đậu những chiếc
xe buýt rực rỡ như
đám mây và tôi lẻ
loi nghĩ về những ống
sáo tôi luôn mất em
khi tôi ra bãi biển
cát ướt với nước mắt
dường như của tôi mặc
dù tôi chưa bao giờ
khóc và giữ em trong
trái tim tôi với niềm
vui thích em có vẻ
tự hào bãi đậu đông
xe và tôi đứng lúc
lắc chùm chìa khóa chiếc
xe hơi trống trơn như
xe đạp bây giờ em
đang làm gì em ăn
trưa ở đâu và có
nhiều cá trồng không thật
khó nghĩ về em với
không có tôi trong ý
tưởng em làm tôi buồn
phiền khi em ở một
mình đêm qua những vì
sao dầy đặc và hôm
nay tuyết là danh thiếp
của chúng tôi không thân
thiết không có gì làm
tôi sao lãng âm nhạc
chỉ là trò đố chữ
em có biết thế nào
khi em là người hành
khách duy nhất nếu đó
là nơi xa hơn nơi
tôi xin em đừng đi.

Ghi chú
anchovy: tiếng Mỹ dịch nghĩa “cá trồng”; tương tự như cá cơm/ cá đối trong tiếng Việt


Phillip A. Ellis
DEAD, WHITE WOOD
Out of the futile grasp
of ghost-white ghost gums,
a cold moon rising,
coloured the hue
of cold smoke furling in flat,
florescent shapes
that were formed beneath
an overarching lamp
falling asleep in the declining
hours of sinking mercury,
and sleepiness settling
like emptied dreams
lazily turbulent
as from cigarettes,
ash-grey as moons
in ghost gums’ ringbarked grasps,(*)
I dream of the trees
marching towards me,
an orchard of dead, white
wood.
Phillip A. Ellis
KẺ CHẾT, RỪNG TRẮNG
Thoát ra khỏi sự nắm bắt
vô vọng của những cây bạch
đàn ma – ma trắng một mặt
trăng lạnh nhô lên tô điểm
sắc thái một làn khói lạnh
gợn theo bề mặt tạo thành
những hình dạng huỳnh quang bên
dưới ngọn đèn trăng bao quát
như ai đó thiếp ngủ lúc
nửa đêm về sáng khi hàn
thử biểu xuống thấp thấm lạnh
và sự ngái ngủ làm thư
dãn như những giấc mơ trống
rỗng lộn xộn một cách uể
oải được nhả từ khói của
những điếu thuốc lá đầu ngày
và màu xám tro không khác
gì những mặt trăng phản ánh
từ những khoanh nhẫn của vỏ
những cây bạch đàn ma, tôi
mơ những cây bạch đàn ấy
bước đều về phía tôi, vườn
cây của kẻ chết, rừng trắng.

Ghi chú
ghost gums: một loài cây có vỏ trắng.
Ringbarked: vòng vỏ cây bị gỡ bỏ, nguyên nhân làm cho cây chết; bị coi là bất hợp pháp ở Úc.


Sydney Lea
THE WRONG WAY WILL HAUNT YOU
(Shouting a hound)
Spittle beads as ice along
her jaw on this last winter day.
And when I lift her, all her bones
are loose and light as sprigs of hay.
For years her wail has cut the woods
in parts, familiar. Host of hares
have glanced behind as she ploughed on
and pushed them to me unawares.
Now her muzzle skims the earth
as if she breathed a far dim scent,
and yet she holds her tracks to suit
my final, difficult intent.
For years with gun in hand I sensed
her circle shrinking to my point.
How odd that ever I should be
the center to that whirling hunt.
Here a yip and there a chop
meant some prime buck still blessed with breath,
and in the silences I feared
she’d run him to her own cold death.
The snow that clouds my sights could be
a trailing snow, just wet and new
enough to keep a scent alive,
but not so deep that she’d fall through.
Sydney Lea
TÌNH THẾ KHÔNG HAY THƯỜNG ĐẾN
(Tiếng kêu một con chó săn)
Những giải nước dãi như băng giá dọc
quai hàm con chó săn vào ngày cuối
đông. Và khi nhấc lên xương cốt nó
lỏng lẻo và nhẹ như một cọng cỏ
khô. Nhiều năm tiếng kêu quen thuộc của
nó đã cắt khu rừng thành từng phần.
Đám thỏ liếc nhìn phía sau không biết
nó đã rẽ và đẩy chúng tới tôi.
Bây giờ mõm nó là đà dưới mặt
đất như thể sự thính mũi của nó
đã lờ mờ xa, và lúc này ý
định giữ vòng săn đáp ứng mục tiêu
với nó là khó. Nhiều năm với cây
súng trong tay tôi có cảm giác nó
đã bắt đầu già. Tôi chưa bao giờ
trông chờ là trung tâm cuộc săn
cuồng quay đó. Đây là tiếng sủa và
kia là con mồi, có nghĩa là vài
con nai tơ vẫn sống, và trong yên
lặng tôi sợ việc săn đuổi đã mang
tới cái chết lạnh cho chính nó. Tuyết
phủ tầm nhìn của tôi có thể là
tuyết vẽ thành vệt, ướt và mới đủ
để giữ sự thính mũi tồn tại, nhưng
không quá sâu rằng nó đã thất bại.

Khế Iêm chuyển dịch
Tranh bài: tranh Winslow Homer (1836-1910): Poet of the Sea

 

 

Leave a Reply

Website này sử dụng Akismet để hạn chế spam. Tìm hiểu bình luận của bạn được duyệt như thế nào.

Latest Articles

TUẦN THƠ 16: CON BÀI

Chúng ta đã có tiêu chuẩn đánh giá một bài thơ: cái mới trong ý tưởng và cái hay trong nhịp điệu; cùng cách làm thơ Tân hình thức Việt, và bây giờ là thời điểm của vận động sáng tác. Thơ Tân hình thức Việt tái định nghĩa, thơ là một hành trình hồi phục người đọc, so với điện ảnh và ca nhạc, đó là tham vọng chẳng có gì phải thất vọng, vì đó là thơ. Nhưng để hồi phục người đọc, phải hồi phục nhịp điệu thơ, và để có nhiều người đọc, phải có nhiều người sáng tác. Chúng tôi mong muốn có những sáng tác mới, áp dụng theo cách làm thơ Tân hình thức Việt, và ngoài việc sáng tác, xin các thân hữu bỏ ít nhiệt tâm vận động thêm người tham gia. Sáng tác xin gửi về email: baogiaytanhinhthuc@yahoo.com ~ tanhinhthuc@gmail.com ~ info@thotanhinhthucviet.vn

4 TẬP THƠ TÂN HÌNH THỨC 2019: PHẦN 3 – TÂM Ý TRONG THƠ

Tâm ý là tập thơ của hai tác giả Phạm Quyên Chi (hội viên Hội VHNT Bình Định) và Hường Thanh do NXB Thuận Hóa vừa ấn hành. Đây là tuyển tập thơ đầu tiên in chung của các tác giả này. Tập thơ theo hướng đi của thơ Tân hình thức, nghiêng về phát triển tính truyện trong thơ.

THANH XUÂN

Thanh Xuân là một dòng thơ thuần phác, với ngôn ngữ vần điệu truyền thống, chưa vướng bụi trần. Bụi trần ở đây có nghĩa là những trăn trở của chữ nghĩa, như hai tập thơ tự do và tân hình thức sau này, Dấu Quê và Thơ Khác.

The Dutch City Poets Who Memorialize the Lonely Dead

Author: Christine Ro | Dec 24 2016 Any funeral is poignant....

BÌNH LUẬN VỀ “THƠ KHÁC”

Trong khoảng vô số giờ phút thú vị tôi chúi mũi vào một tập thơ hoặc văn, có những lúc tôi ngẩng đầu khỏi cuốn sách hoặc ngước mắt khỏi dòng chảy nhịp nhàng của bài thơ, và tự đặt một câu hỏi mà nó đòi được giải đáp: điều gì đã buộc tôi tiếp tục; điều gì hiện hữu bên trong bài thơ khiến đôi mắt khát khao của tôi dán chặt vào những dòng dưỡng chất, năm này qua năm khác?

Poem – I Wouldn’t Change a Thing

Poem - I Wouldn't Change a Thing O'Della Wilson AKA...

Related Articles

How to Take Care of Your Art Materials

CÁCH CHUẨN BỊ ĐỒ DÙNG CHO TÁC PHẨM NGHỆ THUẬT CỦA BẠN Matthew Aldis ngày 17 tháng 5 năm 2012 Your art materials are the base for...

THÂN THẾ VÀ VĂN CHƯƠNG HỒ XUÂN HƯƠNG

Song An Hoàng Ngọc Phách Xưa nay tài tử ở nước Việt Nam ta không phải là ít. Ngoài những bậc siêu quần như bà...

TẾT RỒI ĐÓ EM

Nguyễn Văn Vũ TẾT RỒI ĐÓ EM buông tay ra cho bóng vía bay khỏi đêm ba mươi xóa đường chân trời đi cho mặt trời đừng ngại ngùng...